Ai là người đã lập đội tuần dương quân đầu tiên của Việt Nam?

Từ giặc biển Tàu Ô đến Tuần dương quân

Thuở nhỏ, Bùi Viện đã theo Nho học. Năm 1864, ông đỗ Tú tài, 4 năm sau mới đỗ Cử nhân khoa Mậu Thìn (1868). Năm sau thi Hội hỏng, ông quyết định ở lại Kinh thành Huế mưu đồ tiến thủ. Năm 1871, được Tham tri bộ Lễ là Lê Tuấn cho đi theo ra Bắc đánh dẹp các nhóm nổi loạn.

Sau đó, vua Tự Đức cử Bùi Viện giữ chức Thương chính Tham biện, kiêm Tuần tải Nha Chánh quản đốc. Nhân đó, ông đề nghị triều đình gấp rút phát triển giao thông đường thủy, đào vét sông ngòi, tổ chức thủy đội, tiễu trừ giặc biển, bảo vệ thuyền buôn, mở rộng giao thông với các nước. Ông đã tổ chức đội Tuần dương quân, đây là một việc làm rất có ý nghĩa về mặt kinh tế và quốc phòng.

Thời kỳ vua Tự Đức trị vì (1858-1883), giặc biển hoành hành trên nhiều vùng biển thuộc hải phận nước ta và trở thành vấn nạn của triều Nguyễn. Đặc biệt, cướp biển Tầu Ô đã hoạt động một cách công khai, ngang nhiên ngăn chặn các tàu vận tải, tàu buôn đi lại trên vùng Biển Đông.

Đa Sách Thuyền (nghĩa là thuyền có nhiều dây) là loại thuyền ba cột đục kiểu phương Tây, thường được trang bị súng lớn. Thuyền được khắc trên cửu đỉnh. Ảnh Reds VN

Để đối phó với thực trạng căng thẳng này, triều Nguyễn cử các tàu chiến bọc đồng và cả tàu thủy chạy bằng hơi nước với đầy đủ quân lính trang bị vũ khí thường xuyên tuần tiễu trên biển và hỗ trợ các địa phương. Tháng 2 năm Tự Đức thứ 18 (1865), giặc biển đem hơn 50 chiến thuyền cùng súng và khí giới tràn vào ngoài khơi vùng biển Biện Sơn, Thanh Hóa, quan dân tại đây đã nỗ lực, song do thuyền đi tuần ít, lại thô sơ không đủ sức chống lại, nên phải gấp rút xin triều đình đưa thêm thuyền và quân lính tới giúp.

Nhà vua phái ngay hai chiếc thuyền đồng là Thần Giao (vốn chuyên trách việc tuần tiễu từ Quảng Trị, Quảng Bình đến Quảng Nam) và Tĩnh Dương (phụ trách tuần tiễu từ Hà Tĩnh đến Nam Định) cùng 3 chiến thuyền khác đến ngay Thanh Hóa hội họp đánh giặc. Kết cục, thuyền Thần Giao bị đánh đắm, viên Quản cơ Nguyễn Trì cùng hơn 100 lính bị chết đuối. Cùng năm 1865, giặc biển lại quấy rối, cướp bóc nhiều địa phương khác như Cửa Quyền (Nghệ An), Cửa biển Hải Vân...

Năm 1871, đám giặc Hoàng Tề liên hệ với đảng giặc Tô Tứ đưa bọn giặc người Tàu cùng hơn 70 chiếc thuyền đến đậu tại vùng biển Cát Hải, Hải Phòng, lợi dụng cơ hội tràn vào trong sông cướp hại nhiều lần. Triều đình lệnh cho các tàu máy hơi nước Mẫn Thỏa, Đằng Huy và tàu bọc đồng Tĩnh Hải, Tường Nhạn tập trung để dẹp giặc.

Vua Tự Đức lo lắng trước tình trạng cướp biển ngày càng gia tăng, đã ban Sắc cho bộ Binh nhắc nhở các quan Đại thần phụ trách phải lưu ý tăng cường bổ sung thêm các tàu thuyền của triều đình cũng như tại các địa phương: "Các tỉnh đạo ven biển có rất nhiều thuyền giặc... mà bờ biển dài suốt, chỗ nào cũng có dân ở, đề phòng thời khó được chu toàn, bỏ mặc cũng không được.

 

Ô Thuyền là loại thuyền đi biển sơn màu đen, cánh cánh cũng đen, có 12 tay chèo. Loại thuyền này vừa có vừa có chèo thuyền nên tốc độ nhanh, thường trang bị cho quân tuần tiễu dọc bờ biển. Thuyền được khắc trên cửu đỉnh. Ảnh Reds VN

Gần đây, các thuyền đồng Thần Giao và thuyền đi tuần cũng bị hỏng một lúc, ta thường bận lòng nghĩ ngợi. Hiện nay, thuyền ở Kinh thiếu nhiều, chỉ còn vài ba chiếc, chẳng được việc gì, nên do các tỉnh đem binh thuyền tự giữ lấy, tùy theo số giặc ra biển chặn đánh... hoặc sức cho các tỉnh lựa chọn những thuyền đi buôn hay đánh cá, ngầm phục biền binh súng ống, khí giới, giả dạng làm thuyền buôn, độ 2-4 chiếc đi thành một hàng, dụ họ vào cửa biển, duy ở người ta khéo sắp xếp là được".

Từ thực tế chiến trận cùng với nhận xét của chính vua Tự Đức, có thể nhận thấy thủy quân thời kỳ này còn yếu và lạc hậu, nên không thể thực hiện việc truy quét hải tặc và hỗ trợ hiệu quả cho các thuyền buôn và vận tải khi gặp nạn. Sách Đại Nam thực lục đã ghi lại không ít lần thủy quân triều Nguyễn phải chịu thua thiệt trước sức tấn công mạnh mẽ của lực lượng này.

Quy mô, số lượng các lần tấn công của giặc biển ngày càng lớn, đã có lần chúng đưa vài trăm thuyền tới tham chiến, như năm 1865, có hơn 300 thuyền từ các đảo Phù Long, Cát Bà (tỉnh Quảng Yên), chia làm 3 chi đến quấy nhiễu. Triều đình đã phải thuê nhờ các lực lượng bên ngoài giúp đỡ, Bành Đình Tú chỉ huy đội thuyền triều Thanh cũng từng đưa quân sang tiễu trừ giặc biển theo yêu cầu triều Nguyễn. Ngay vua Tự Đức có lần cho rằng, bọn giặc biển quấy nhiễu lan tràn, muốn thuê tàu máy của người Pháp giúp việc đánh dẹp.

Hải Đạo là loại thuyền rất linh hoạt phục vụ hoạt động chiến đấu trên biển. Trong một đơn vị thủy binh ngày trước, hải đạo được tổ chức bởi nhóm binh sĩ, khi chiến đấu thì cơ động nhanh, lúc tuần tiễu thì đi theo hàng để tiện hỗ trợ cho nhau. Thuyền được khắc trên cửu đỉnh. Ảnh Reds VN

Bùi Viện đã dâng biểu tâu lên vua Tự Đức: "...Việc trị an ở ngoài biển gần đây nước ta tin cậy vào công cuộc hải phòng của một nước ngoài… Chúng ta chỉ có vài chiếc tàu thủy, vừa chậm chạp vừa nặng nề. Giữ được chỗ nọ thì hỏng chỗ kia, vài con voi địch với một đàn hổ, thế dù mạnh đến đâu cũng không thể che chở cho xiết được. Và những tàu thủy lòng sâu 7-8 thước mà thuyền giặc thì lòng chỉ 3-4 thước là cùng. Nếu gặp tàu thủy đi tuần thì giặc đã có một cách đối phó rất đơn giản và có hiệu lực vô cùng là chúng tránh thuyền vào những chỗ bể nông, tàu không sao đến được mà bắn cũng không tới...".

Ông đã chỉ ra rằng: Thực ra, từ khi đặt ra đến giờ, những đội quan phòng ở các đồn duyên hoạt động không hiệu quả. Vì chức trách của họ là phòng ngừa giặc biển, mà giặc biển thì hoành hành ở ngoài khơi. Dù họ có biết đích xác là ngoài biển có giặc nữa thì chỉ giương mắt mà nhìn, chứ không có cách gì xoay trở...

Do đó, Bùi Viện quan niệm, đánh giặc phải đánh ngay từ ngoài biển, biến những đội Tuần dương (theo đúng nghĩa đi tuần) thành thủy quân chiến đấu, giảm thiểu trách nhiệm cho các đội quan phòng bằng cách giải ngũ những thành phần yếu đuối, già nua và chỉ giao cho họ nhiệm vụ tổ chức những hải cảng và "hỏi giấy thông hành những người ngoại quốc hoặc bản xứ qua lại các thương cảng".

 

Đỉnh là loại thuyền thon nhỏ, nhiều tay chèo, vừa dùng để đua trong các lễ cầu mưa, các ngày lễ hội, vừa dùng trong chiến đấu được trang bị cho quân đội nhà Nguyễn. Thuyền này có tốc độ rất nhanh, hoạt động thuận tiện trên tất cả các loại đường thủy. Thuyền được khắc trên cửu đỉnh. Ảnh Reds VN

Việc thành lập Tuần dương quân được Bùi Viện soạn thành điều lệ, bao gồm lời nói đầu và 20 điều khoản, trong đó, có định ra chế độ lương bổng và cấp bậc, phụ cấp, binh phục, trợ cấp gia binh, các chế độ khen thưởng, xử phạt. Có thể nói kỷ luật mà Bùi Viện đặt ra là kỷ luật thép áp dụng trong thời chiến. Ông đưa ra những trách nhiệm liên đới giữa binh sĩ và người chiêu mộ, vừa chịu tội vừa phải bồi thường công quỹ.

Binh lính mà ông chiêu mộ được chia thành hai loại: Thủy dũng: Là binh lính người Việt tuyển mộ từ các dân chài dọc theo duyên hải có những điều kiện "trí dũng, đức hạnh, bơi lội giỏi, thuộc đường bể, biết trước những lúc có thể xảy ra mưa gió, thông các phép tính"; Thanh đoàn: Là người nước ngoài, kể cả giặc biển được chiêu mộ làm lính trong Tuần dương quân.

Bùi Viện đề nghị lập một đội hỗn hợp bao gồm dân chài (700/1.000) và hải tặc chiêu hồi (300/1.000) có địa bàn hoạt động toàn quốc, nghĩa là thống nhất chỉ huy, địa phương tiếp ứng, có thể tập trung lực lượng để hành quân những trận lớn đối phó với giặc mà không để bị rơi vào thế thụ động như trước. Ông cũng đề nghị chia thành hai loại căn cứ tiếp liệu, gồm các đồn lớn ở hải cảng là căn cứ của đội Tuần dương quân và các đồn nhỏ ở những nơi hiểm yếu, là nơi liên lạc và hỗ trợ.

Lê Thuyền là một loại thuyền có 12 tay chèo, được sản xuất khá nhiều dưới thời vua Gia Long, Minh Mạng. Năm 1835, nhà Nguyễn đóng một chiếc thuyền hình dạng này cho Viện Cơ mật để làm thuyền giá khi vua đi tuần đường thủy. Thuyền được khắc trên cửu đỉnh. Ảnh Reds VN

Tuần dương quân của Bùi Viện tuy còn non trẻ nhưng đã sớm lập được một số chiến công. Tháng 4/1878, Tuần dương quân đã giao chiến với giặc cướp biển ở Hà Tĩnh, dùng hỏa công đốt tàu địch khiến chúng phải chạy trốn, tịch thu một chiến thuyền cùng lương thực, đạn dược và bắt được 18 tên cướp. Đến tháng 5 năm đó, Tuần dương quân lại giao tranh với hải tặc ở vùng biển Thanh Hóa, trong khi chúng đang cướp một tàu buôn.

Nhờ hai chiến công đó, dân chúng cảm thấy yên tâm làm ăn, buôn bán hơn, các thương cảng trở nên sầm uất, tàu thuyền ra vào ngày một nhiều. Trên bộ, Bùi Viện cho xây lại những pháo đài, bố trí súng đại bác để canh phòng mặt biển. Dựa vào những điều khoản của Hòa ước Giáp Tuất (15/3/1874), ta phải mở cửa các thương cảng Quy Nhơn, Hải Phòng và Bùi Viện đã tiến xa hơn một bước là mở các chi điếm ở Thanh Hóa, Nghệ An, Đà Nẵng, Quảng Nam.

Việc tổ chức Tuần dương quân đã góp phần đảm bảo yên ổn việc vận tải đường biển, tăng cường khả năng phòng thủ vùng biển, phát triển việc buôn bán trong Nam ngoài Bắc và đẩy mạnh việc thông thương buôn bán với nước ngoài.

THEO DANVIET