Ai là người vâng lời Lê Chiêu Thống, sang mời 20 vạn quân Thanh vào Đại Việt?

Theo sách "Đại Việt sử ký tục biên", Trần Danh Án làm quan vào thời Lê trung hưng và ông cũng là nhà thơ có tài. Quê ông ở làng Bảo Triệu, huyện Gia Bình, trấn Kinh Bắc, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Ông xuất thân trong gia đình khoa bảng, có nhiều người làm quan lớn trong triều. Ông nội là tiến sĩ Trần Phụ Dực, làm quan đến chức Tư huấn Quốc Tử Giám, tham gia soạn "Đại Việt sử ký tục biên". Bác ruột ông là tiến sĩ Trần Danh Ninh và cha ông là tiến sĩ Trần Danh Lâm (cùng đỗ Tiến sĩ năm 1731), làm quan đồng triều và đều làm đến chức thượng thư.

Trần Danh Án từ nhỏ đã thông minh học giỏi. Năm Chiêu Thống thứ nhất (1787), ông thi đỗ Hoàng Giáp khoa khoa Đinh Mùi (khoa thi cuối cùng của triều Hậu Lê) và sau đó được bổ chức quan. Tháng 12 năm ấy, tướng Tây Sơn là Vũ Văn Nhậm kéo quân ra Thăng Long, vua Lê nghe lời Nguyễn Hữu Chỉnh, nên đã bỏ kinh thành chạy về vùng Kinh Bắc.

Ai là người vâng lời Lê Chiêu Thống, sang mời 20 vạn quân Thanh vào Đại Việt? - Ảnh 1.

Trần Danh Án. Hình minh hoạ.

Tháng 4 năm Mậu Thân (1788), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc, bắt giết tướng Nhậm. Trong khoảng thời gian ấy, Trần Danh Án và Lê Duy Đản được vua Lê cử sang cầu cứu vua nhà Thanh (Trung Quốc). Sau đó, hơn 20 vạn quân Thanh rầm rộ kéo sang. Nhờ vậy, vua Lê giành lại được ngai vàng và phong cho Trần Danh Án là Tĩnh nạn công thần, với tước Định nhạc hầu.

Mùa Xuân 1789, vua Quang Trung (tức Nguyễn Huệ) kéo đại quân ra Bắc và đại phá tan tác đội quân xâm lược của nhà Thanh. Khi ấy, vua Lê Chiêu Thống phải trốn chạy sang nhà Thanh để sống nương nhờ. Còn Trần Danh Án vì chạy theo không kịp nên đã lẻn trốn về quê mai danh ẩn tích. Sau vua Quang Trung biết Trần Danh Án là người hiền và đã sai Ngô Thời Nhiệm viết thư để triệu về triều, nhưng ông khăng khăng từ chối. Về sau, Trần Danh Án bị bắt giam ở Thăng Long nhưng vẫn không đổi ý.

Khi Tây Sơn thua, Gia Long lên ngôi, mời các cựu thần nhà Lê ra giúp việc, Trần Danh Án cũng kiên quyết từ chối. Ông chỉ nhận một cái khăn của Gia Long biếu, không chịu quan tước gì cả. Không những vậy, ông còn rất tự hào về cách xử sự này và đã làm bài thơ lưu truyền đến ngày nay: Nhân chi dữ vật bất đồng quần; Phong nghệ tuy vi thượng hữu quân. Huống thị thiếu niên tăng bội phục; Kiêm tri tráng tuế dĩ quan thần. Bắc song xử sĩ do tri Tấn; Đông Hải tiên sinh bất đế Tần. Tử hậu mộ bàng nhân chỉ điểm; Cố Lê triều tiến sĩ tính Trần.

Nghĩa là: Người và giống vật khác trăm phần; Ong kiến còn kia nghĩa chúa quân. Huống đã tuổi thơ khuôn lễ giáo; Lại thêm hồi lớn vẻ đai cân. Bắc song xử sĩ không quên Tấn; Đông Hải tiên sinh chẳng chịu Tần. Người sau bên mộ giơ tay trỏ; Tiến sĩ triều Lê cũ, họ Trần.

Với nội dung bài thơ trên, Trần Danh Án đã nói lên được sự tự đắc trong việc giữ gìn danh tiết của mình. Nhưng với việc ông tuân lệnh vua Lê Chiêu Thống đi rước 20 vạn quân Thanh về cướp nước thì có ai thời ấy mà quên được. Chính vì thế, khi nghe bài thơ của ông, đương thời tỏ rõ không phục. Người ta đã bình luận rằng là người giữ gìn tiết tháo thì sao không từ chối tất cả, mà còn nhận cái khăn của Gia Long? Nhận không phải là vì phép lịch sự, mà là vì... sợ? Hơn nữa, như thế cũng không phải là hoàn toàn trong trắng. Vì vậy, đã có người chữa lại câu cuối thành ra:

Tự hậu mộ bàng nhân chỉ điểm; Lê triều tiến sĩ, Nguyễn triều cân.

Nghĩa là: Bên mộ đời sau người sẽ trỏ; Triều Lê tiến sĩ, Nguyễn triều khăn.

Đây quả là một sự mỉa mai đến chua chát. Và có lẽ vào thời ấy, khi nghe được hai câu này chắc chắn Trần Danh Án cũng phải sượng sùng.

THEO DANVIET