Dưới cái nắng chói chang của những ngày đầu tháng 8, sau khi đến đền thờ của Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần tại làng Thượng Vôi, xã Xuân Hòa, chúng tôi được ông Hoàng Hùng, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Thọ Xuân - Yên Định dẫn ra khúc sông Chu, nơi có một khối hợp chất, mà ông và người dân địa phương cho rằng nhiều khả năng đó chính là mộ của bà Phạm Thị Ngọc Trần.
Đền thờ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần ở làng Thượng Vôi, xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
Những giả thiết… từ dân gian và sử liệu
Người dân chài lưới ở đây cho biết, vào mùa đông nước sông Chu trong xanh và cạn, có thể chọc sào xuống ở vị trí đó, chỉ độ chưa đầy 1m đã chạm vật rắn có độ dài khoảng 4m, rộng chưa đến 2m. Dù nước sông Chu có cạn, “ngôi mộ” cũng không trồi lên mặt nước.
Đến cuối năm, nước sông Chu trong xanh ai cũng có thể nhìn rõ “ngôi mộ”, sâu dưới mặt nước độ 1-2 gang tay. Bao đời nay người dân vẫn tin rằng đây là ngôi mộ của Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần nên vào ngày kỵ và các dịp lễ tết, bà con vẫn thường đem hương hoa thả xuống dòng sông thể hiện sự tri ân, khẩn cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt.
“Không ai là không biết đến “ngôi mộ” nằm dưới đáy sông Chu, và khi đến đoạn sông này, đều phải chạy chậm thuyền rồi khấn. Nhiều thuyền bè, máy hút cát qua lại lần đầu nơi đây đều gẫy chân vịt, rồi chết máy”, ông Đỗ Xuân Phương, người dân địa phương cho biết.
Theo nhiều tư liệu lịch sử còn ghi lại cho biết, từ khi dấy nghĩa tại núi Lam Sơn, vua Lê Thái Tổ có ba bà vợ. Người thứ nhất là Thần Phi (tên thật là Trịnh Thị Lữ, người làng Bái Đô, Xuân Bái, Thọ Xuân bây giờ); người thứ 2 là Huệ Phi (tên thật là Phạm Thị Nghiêu) và bà vợ thứ ba là Trần Thị Ngọc Trần (sau này đổi họ thành Phạm Thị Ngọc Trần).
Tương truyền, trong một lần vua Lê Thái Tổ có việc phải sang sông khi trời đã nhập nhoạng tối, bỗng thấy thấp thoáng trong nương dâu, một thục nữ chân quê mang dáng dấp quý phái của giai nhân, sắc sảo mà hiền thục, lời nói nhẹ nhàng, thanh thoát, đáng bậc phu nhân, hoàng hậu.
Lê Lợi hỏi ra mới biết người con gái ấy là họ Trần, húy là Ngọc Trần, người làng Quần Lai, huyện Lôi Dương (nay thuộc làng Quần Đội, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân), ông liền hỏi cưới làm vợ. Khi Lê Lợi xưng Bình Định Vương, dựng cờ khởi nghĩa, bà lặn lội theo hầu, trải nhiều gian lao nguy hiểm.
Năm Ất Tỵ (1425) Lê Thái Tổ thúc quân vây đánh thành Nghệ An, khi đến cửa Triều Khẩu, lúc nghĩa quân chuẩn bị vượt sông thì trời đang nắng bỗng nổi giông tố mịt mùng, lòng sông nổi ba đào, quân lính, ngựa voi không tài nào qua sông được.
Vương liền cho gọi người cao niên đến hỏi việc. Người dân địa phương cho biết, ở khúc sông này có vị thủy thần là Phổ Hộ trấn giữ, cứ ba năm một lần người dân vẫn bắt một trinh nữ làm lễ vật để cúng dâng. Nay muốn vượt qua sông an toàn tất phải thực hiện việc tế thần theo tập tục cũ.
Đêm ấy gần về sáng, nhà Vương nằm mộng thấy một vị thủy thần đến bên đầu giường bảo rằng: “Tướng quân cho ta một người thiếp, ta sẽ phù hộ cho tướng quân qua sông dẹp được giặc Ngô, dựng nên nghiệp đế!”.
Tỉnh dậy, Vương gọi ba người vợ đến kể lại giấc mộng. Trong khi hai bà vợ đầu còn do dự, phân vân thì bà vợ thứ ba Phạm Thị Ngọc Trần đã đứng ra tự nguyện xin được làm vật tế thần, giúp chồng. Lúc này, con trai của bà là hoàng tử Lê Nguyên Long mới lên 2.
Ngày 24 tháng 3 Ất Tỵ (1425), sau khi giao con cho người hầu chăm sóc, Bình Định Vương đã gạt lệ, lập đàn tế, đưa người vợ vị nghĩa vong thân xuống cho thần sông. Sau khi bóng bà Phạm Thị Ngọc Trần chìm khuất vào làn nước lạnh, kỳ lạ thay, trời đất đang mịt mù phong ba, mặt sông cuộn sóng bỗng lặng phắt, nghĩa quân cùng voi chiến nhanh chóng vượt sông thẳng tiến đến vây đánh hạ thành Nghệ An, rồi thừa thắng đem quân giải phóng một vùng đất đai rộng lớn từ Nghệ An đến Thuận Hóa.
Từ đây làm bàn đạp đưa quân ra Bắc đánh đuổi giặc Minh ra khỏi bờ cõi vào cuối năm 1427, lên ngôi vua Lê Thái Tổ, mở ra nền độc lập tự chủ dài lâu, thịnh trị cho quốc gia Đại Việt. Lại nói về bà Phạm Thị Ngọc Trần. Sau khi Lê Lợi kéo quân qua cửa Triều Khẩu đã cắt cử người ở lại, chờ ngọc thể vương phi nổi lên, đưa về làm ma chay mai táng chu đáo.
Nhà nghiên cứu lịch sử Hoàng Hùng chỉ mong có ngày khối hồ lớn nghi ngôi mộ cổ dưới đáy sông Chu sẽ được giải mã
Nghi vấn thú vị chờ giải mã
Để đưa ra những chi tiết lịch sử thuyết phục về nghi vấn “vật thể lạ” chính là ngôi mộ cổ của Hoàng thái hậu, nhà nghiên cứu Hoàng Hùng đã lục tìm những tập tài liệu cổ, những ghi chép bằng chữ Hán, những tài liệu ở Viện Viễn Đông Bác Cổ.
Ông Hùng dẫn chứng: Ngày 24 tháng 3 Ất Tỵ (1425), bà Phạm Thị Ngọc Trần hóa thân ở cửa Triều Khẩu và an táng tại Nghệ An.
Vào năm Thuận Thiên, sau khi đánh đuổi hoàn toàn giặc Minh ra khỏi bờ cõi, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lệnh cho quân lính đưa quan tài bà từ Nghệ An về táng ở Thanh Hóa, khi đến xã Thịnh Mỹ (Thọ Xuân) thì trời tối chưa kịp qua sông nên phải nghỉ lại. Hôm sau chỗ để quan tài bà mối đùn thành mộ nên để táng tại đó và dựng điện Hiến Nhân để thờ phụng.
Đến đời vua Lê Hiến Tông, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 10 (1749), vào tháng 8, Thanh Hóa xảy ra một trận lụt lớn, nước sông dâng cao, xoáy lở phần mộ Thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần ở Thịnh Mỹ xuống sông, quan tài nổi lên theo dòng nước trôi đến Vụng Hương thuộc làng Hưng Phấn, xã Thọ Hải (Thọ Xuân), quan tài xoay ba vòng rồi trôi về làng Thượng Vôi và định lại.
Đây là những chi tiết có thật được ghi lại trong gia phả họ Nguyễn Mậu ở Thịnh Mỹ. Vì trong trận lũ ấy, mộ Nguyễn Nhữ Lãm và phu nhân cũng bị nước lũ làm lở đất lộ phần quách. Triều đình sai Tả sử quan Nguyễn Khâm Thận về hoàn táng linh cữu Phạm Thái hậu tại làng Thượng Vôi và lập đền thờ gọi là Quốc Thái mẫu linh từ.
Đến năm Bảo Đại thứ 16 (1942), sông Chu đổi dòng, ngôi đền có nguy cơ bị lở xuống sông, nhân dân Thượng Vôi chuyển ngôi đền vào địa điểm ngày nay. Như vậy, trong vòng 325 năm (1425-1749), mộ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần đã ba lần hoàn táng, trong đó có 266 năm mộ phần nằm lại với nhân dân làng Thượng Vôi, xã Xuân Hòa.
Căn cứ những ngôi mộ cổ thời Lê phát lộ trên đất Thọ Xuân, rồi phương thức mai táng các ngôi mộ thời Lê Sơ, quách quan tài bên ngoài bằng ván, giữa các lớp ván được gắn với nhau bằng một lớp nhựa thông dày khoảng 1cm.
Mộ thời Lê Trung Hưng thì bên ngoài quan tài là lớp quách bằng vữa hợp chất, từ thực tế đó nhà sử học Hoàng Hùng cho rằng khối hình chữ nhật nhân dân phát hiện vào những năm 60 của thế kỷ trước có thể là lớp quách bằng vữa hợp chất của mộ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần.
Trước đó, để tăng thêm những căn cứ, ông Hùng đã nhờ người lặn xuống đáy sông Chu, đục lấy một mảnh của ngôi mộ đem về phơi khô, sau đó nghiền thành bột, đổ vào bát nước và thấy một lớp váng màu vàng nổi lên.
Ông Hùng cho rằng, nếu là đá tự nhiên thì không thể có váng như vậy. Mà đây có thể là một thứ hợp chất được cô lại từ đất sét, mật mía… như mộ của Thái hậu Phạm Thị Ngọc Oanh, mộ vua Lê Huyền Tông ở xã Nam Giang.
Do đó, nếu xét về góc độ nghiên cứu sử thì đây là ngôi mộ thật nhưng xét ở góc độ khoa học khảo cổ thì theo ông Hùng còn phải có sự vào cuộc nghiêm túc của các nhà khảo cổ, những người có chuyên môn về lĩnh vực này. Nếu giải mã được, đây sẽ là một di tích rất có giá trị lịch sử, văn hóa.
Trao đổi với Văn Hóa, ông Nguyễn Xuân Hải, Phó Chủ tịch UBND huyện Thọ Xuân cho biết, lời đồn có một khối hồ ở đáy sông Chu nghi là ngôi mộ Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần đã có từ lâu.
Tuy nhiên, để khẳng định đây có phải là mộ của Hoàng thái hậu Phạm Thị Ngọc Trần hay không thì cần có sự vào cuộc của các cơ quan chuyên môn về lĩnh vực này nhằm tổ chức khảo cổ, nghiên cứu một cách nghiêm túc.
“Ngôi mộ cổ” ở đáy sông Chu đoạn chảy qua xã Xuân Hòa, huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa) vẫn còn là nghi vấn thú vị và không dễ trả lời, bởi vậy đang chờ các cơ quan chuyên môn, các nhà khảo cổ, những người có chuyên môn về lĩnh vực này giải mã.
THEO DANVIET