Trạng nguyên thường là những người có kiến thức sâu rộng, uyên thâm… được chọn từ các khoa thi nghiêm ngặt. Thế nhưng, dân gian thường mượn các giai thoại tâm linh kỳ bí để giải thích cho sự xuất chúng ấy.
Nhằm năm Mùi mới đỗ
Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng, sinh năm 1465 tại xã Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, trấn Sơn Nam (nay thuộc xã Dân Hòa, huyện Thanh Oai – Hà Nội). Ông là con trai Tiến sĩ Nguyễn Bá Ký – đỗ khoa Quý Mùi 1463 đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến chức Thượng thư Binh bộ.
Theo các tài liệu lịch sử, Nguyễn Đức Lượng vốn tên là Hề, đến khi đỗ Trạng nguyên khoa Giáp Tuất 1514 đời vua Lê Tương Dực - được vua phê cho đổi tên là Đức Lượng.
Theo “Đại Việt sử ký toàn thư”: “Tháng 3, thi Hội các sĩ nhân trong nước. Bấy giờ, người dự thi là 5.700 người. Lấy đỗ bọn Nguyễn Bỉnh Đức (Bỉnh Đức trước tên là Giới, sau đổi thành Ninh Chỉ, sau lại đổi là Ninh Bang), người phường Thịnh Quang, huyện Quảng Đức, thi Đình đỗ đồng tiến sĩ xuất thân, triều Mạc làm quan đến thượng thư thiếu sư Liêm quận công, gồm 43 người.
Mùa hạ, tháng 4, ngày 27, vua thân hành ngự điện ra đầu bài văn sách hỏi về nhân tài. Sai Tả bình chương quân quốc trọng sự nhập nội kiểm hiệu thượng tướng thái úy Lương quốc công Lê Phụ, Lại bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Đàm Thận Huy, Công bộ hữu thị lang Lê Tán Tương, Thiếu bảo Lại bộ thượng thư Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ thượng thư tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoàn Mậu, Thiếu báo Lễ bộ thượng thư Đông các đại học sĩ kiêm Quốc Tử Giám tế tửu tri kinh diên sự Đôn Thư bá Lê Tung, Hình bộ thượng thư Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên Đỗ Nhạc chia nhau trông coi việc thi.
Cho bọn Nguyễn Đức Lượng, Nguyễn Chiêu Huấn, Hoàng Minh Tá 3 người đỗ đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ; bọn Nguyễn Vu 20 người đỗ đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân; bọn Nguyễn Bỉnh Di 20 người đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Tháng 5, có chiếu cho các tiến sĩ mới là bọn Nguyễn Đức Lượng vào điện Thiên Quang làm bài ứng chế, vua sai làm bài Thiên Quang điện ký”.
Nguyễn Đức Lượng đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên), lúc ấy ông đã 50 tuổi.
Trong “Tam khôi bị lục” của Hồ Ngu Thụy viết về ba đời khoa bảng nhà Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng: “Cha là Bá Ký, con là Khuông Lễ, em họ là Nguyễn Thuật, ba đời liên tiếp đỗ cao. Bá Ký đỗ tiến sĩ khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận, làm đến Lại bộ thượng thư.
Khuông Lễ đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đại Chính nhà Mạc, làm đến chức Tự Khanh, chết dọc đường trong lúc đi sứ Tàu, tặng Hữu Thị Lang. Nguyễn Thuật đỗ tiến sĩ khoa Ất Mùi niên hiệu Đoan Khánh, làm đến Ngự sử”. Vậy là cha, em, con của Nguyễn Đức Lượng đều nhằm năm Mùi mà đỗ.
Khu mộ hai Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến. |
Ăn mày đòi “xôi gấc”
Tuy nhiên, chuyện bí ẩn về việc đỗ đạt của Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng và người cháu con em gái còn được kể ly kỳ hơn.
Sách “Đăng khoa lục sưu giảng” và một số giai thoại dân gian nói rằng, buổi ấy Nguyễn Đức Lượng tuổi đã cao, sắp ngũ tuần mà chưa đỗ đạt gì, đường khoa hoạn không thấy hanh thông sáng sủa. Ông bèn mời một thầy địa lý phương Bắc về nuôi để tìm giúp cho một ngôi đất phát về khoa cử.
Thầy địa lý đi tìm khắp nơi trong vùng, nhưng phải tròn một năm sau mới tìm được ngôi đất ưng ý cho ông, nhưng lại chưa tìm được ngày táng, nên phải đợi. Gần ngôi đất ấy là khu chợ lớn, có một người đàn ông bị điên, lại mắc bệnh cùi (bệnh phong, bệnh hủi), hay lân la quanh chợ xin ăn.
Trước ngày táng mộ tổ nửa tháng, Nguyễn Đức Lượng vào ngôi đất đã định, thì người ăn xin điên ấy lại dựng chiếc lều ngay đúng chỗ ngôi đất đã chọn của Nguyễn Đức Lượng. Đuổi hắn cũng không đi, cho tiền gạo, dỗ dành, quát nạt nặng nhẹ hắn cũng chẳng chịu.
Nguyễn Đức Lượng bèn nói: Tôi sẽ cho anh ruộng đất, nhà cửa, để anh đi chỗ khác, chả hơn lại ở chỗ này mà suốt đời ăn xin. Vả lại, tôi nuôi thầy tìm đất đã hơn một năm, nay sắp đem hài cốt tổ tiên táng đúng chỗ này, mà anh làm như vậy hóa ra chẳng thiệt thòi cho tôi lắm sao?
Nhưng khổ nỗi, người điên ấy lại có tính cố chấp, khăng khăng không chịu nghe lời ngọt nhạt của Nguyễn Đức Lượng. Bấy giờ, ông có người em gái tuổi đã cập kê, rất có nhan sắc mà lại chưa lấy chồng. Người điên ăn xin ấy cũng biết tới tiếng tăm của cô.
Hắn nói: Ông có cô em gái xinh đẹp, nếu cho tôi được giao hoan một lần, thì chẳng cần tiền bạc, nhà cửa hay ruộng vườn gì, tôi sẽ rút lều đi ngay.
Nghe thế, Nguyễn Đức Lượng lấy làm bất ngờ vì không ngờ lại dám nói ra ước muốn không tưởng – ăn mày lại đòi “xôi gấc”. Nhưng lại nghĩ đất tốt sắp đến ngày táng rồi, mà việc cứ đình lại mãi thế này không biết làm sao, ông bèn khất với người điên để về hỏi ý kiến em gái.
Về nhà, sau bao hồi suy nghĩ, ông không đành lòng nói cho em biết. Nhưng ngày hợp táng đã gần kề, mà kẻ điên vẫn cắm lều ở ngôi đất ấy không chịu rời đi.
Chẳng biết làm cách nào hay hơn, Nguyễn Đức Lượng bèn gọi cô em gái lại, bảo: Nay anh sắp làm ngôi đất mà thằng cùi đó lại cố chấp một mực không nghe, cho của nả gì hắn cũng không nhận mà chuyển đi. Lại muốn chuyện ấy, ý em thế nào nói cho anh biết?
Người em nghe anh tâm sự, sau một lúc lâu tư lự, mới nói: Nếu vì việc ấy mà hồn phách của cha được yên, danh tiếng, khoa hoạn của anh được thành, thì anh bảo sao, em xin nghe làm vậy. Tấm thân giữ vàng, gìn ngọc này em cần gì phải tiếc nữa.
Bác cháu đỗ Trạng nhờ mộ phát
Đến hôm sau, cô em gái tắm rửa sạch sẽ, chờ đêm khuya liền một mình đi đến nơi người điên ấy đang cắm lều ngủ. Sau hồi yêu đương, người điên lăn ra chết. Người em gái sợ quá, hớt hải chạy về báo với Nguyễn Đức Lượng để ngày mai đến khiêng đi chôn chỗ khác. Nhưng nào ngờ, chỉ trong một đêm, xác người điên đã được mối đùn lên lấp kín thành mộ.
Ngôi đất mà nhà Nguyễn Đức Lượng bao lâu nay tìm kiếm có hình hỏa tinh lớn nở miệng, trước mặt có con sông chia làm ba nhánh. Bên kia bờ sông chỗ hỏa tinh mở miệng, thì mộ của người điên chết ở ngay phía trên.
Nguyễn Đức Lượng thấy mối đã đùn thành mộ, nghĩ đấy là mệnh trời nên không đào mộ người điên lên táng chỗ khác. Thầy địa lý phương Bắc sau khi quan sát thế đất mới bảo rằng, ở phía bên dưới phần mộ mối đùn ấy, còn có huyệt thừa khí, sẽ táng mộ cha vào đó.
Kể từ khi táng hài cốt của cha vào bên cạnh mộ người điên, sức học của Nguyễn Đức Lượng cũng ngày một tấn tới. Đến khoa thi năm Giáp Tuất (1514) đời vua Lê Tương Dực, Nguyễn Đức Lượng đứng đầu bảng vàng. Còn người em gái của ông thì mang thai sau cái đêm hoa nguyệt với người điên, đẻ được người con trai, đặt tên là Nguyễn Thiến.
Nguyễn Thiến tư chất thông minh, được cậu là Nguyễn Đức Lượng thương yêu, chăm sóc như con đẻ, dạy dỗ thấu đáo. Sau này đến thời nhà Mạc, Thiến đỗ đại khoa như người bác của mình, người đời cho rằng chính là phát từ ngôi mộ người cha điên chưa kịp nhìn mặt của Thiến.
Dân gian nhân chuyện đỗ đạt lạ lùng ấy mà gọi Nguyễn Đức Lượng và Nguyễn Thiến là Trạng bác - Trạng cháu.
Theo tìm hiểu của phóng viên, thực tế Nguyễn Thiến không phải là con của kẻ điên ăn xin như trong giai thoại. Các nguồn sử liệu cho biết, cha Nguyễn Thiến là Nguyễn Doãn Toại (thường gọi là công tử Toại – PV). Toại là con trai Hoàng giáp Nguyễn Doãn Địch - làm quan đến chức Tả thị lang bộ Lễ. Ông cũng là bố vợ của Thám hoa Hoàng Sầm – vị Thám hoa tài dị bậc nhất trong lịch sử khoa cử.
Em gái Trạng nguyên Nguyễn Đức Lượng là Nguyễn Thị Hiền. Bà Hiền kết duyên với ông Toại, và việc ông Toại chết trong đêm tân hôn - sau này được người đời truyền tụng ly kỳ như câu chuyện đã kể ở trên.
Kết quả hôn nhân ngắn ngủi của họ là Nguyễn Thiến. Nguyễn Thiến đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn 1532, niên hiệu Đại Chính thứ 3 đời Mạc Đăng Doanh. Ông làm quan cho nhà Mạc đến chức Thượng thư Lại bộ, Ngự sử đài đô ngự sử, Đông các đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tước Thư quận công.
Sau vì bất mãn với nhà Mạc nên cùng thông gia là Đại tướng Thái tể Phụng quốc công Lê Bá Ly vào Thanh Hóa quy thuận nhà Lê Trung hưng. Vua Lê cho ông giữ nguyên các chức tước, đảm trách việc tuyển bổ quan lại cho nhà Lê trong 7 năm.
Nguyễn Thiến qua đời năm 1557, đời Lê Anh Tông, thọ 63 tuổi. Ông có hiệu là Cảo Xuyên, là danh sĩ có tiếng thế kỷ 16. Ông đỗ Trạng nguyên trước Nguyễn Bỉnh Khiêm một khoa – và là hai người bạn văn chương tâm đắc. Tác phẩm của ông còn lại 16 bài thơ chép trong sách “Toàn Việt thi lục”. Theo sách “Nhị Khê Nguyễn thị gia phả”, Nguyễn Thiến là viễn tổ của đại thi hào Nguyễn Du.
Theo Giáo dục Thủ Đô