Lê Thánh Tông (1442-1497) là vị hoàng đế thứ 5 của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông trị vì đất nước 37 năm – lâu nhất thời Hậu Lê – giai đoạn Lê sơ trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt thời kỳ của ông đã đánh dấu sự hưng thịnh của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến Việt Nam nói chung với tên gọi Hồng Đức Thịnh Thế.
Lê Thánh Tông tên thật Lê Tư Thành là con thứ 4 của vua Lê Thái Tông. Năm 1442, vua Thái Tông mất, Thái tử Lê Quang Cơ lên ngôi lấy hiệu là Lê Nhân Tông rồi phong Tư Thành làm Bình Nguyên Vương.
Năm 1459, con trai cả của Thái Tông là Lê Nghi Dân đột nhập cung cấm giết vua Nhân Tông. Sau đó Nghi Dân tự lập làm vua, cải phong Tư Thành làm Gia vương. 8 tháng sau, Nghi Dân bị triều thần bức tử rồi đón Tư Thành lên nối ngôi.
Từ khi lên ngôi hoàng đế, Lê Thánh Tông đã ban bố rất nhiều chính sách nhằm hoàn thiện bộ máy quan chế, hành chính, kinh tế, giáo dục – khoa cử, luật pháp và áp dụng các giá trị Tân Nho giáo vào việc trị an… khiến Đại Việt trở thành một quốc gia ổn định và văn minh.
Tranh vẽ vua Lê Thánh Tông.
Năm 1496, vua Lê Thánh Tông bắt đầu không khỏe, sau đó 1 năm bệnh bất ngờ trở nặng rồi băng hà, hưởng thọ 56 tuổi. Nhưng cái chết của ông vẫn luôn là một bí ẩn của lịch sử. Và sử sách của triều đại có ghi lại vấn đề này, trong đó thủ phạm được đề cập là một bà quý phi. Lạ thay, dù mang tội giết vua nhưng người phụ nữ vẫn nghiêm nhiên trở thành thái hậu của triều sau.
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tiếc rằng vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh nặng. Trường Lạc hoàng hậu bị giam ở cung khác, đến khi vua ốm nặng mới được đến hầu bệnh, bèn ngầm giấu thuốc độc trong tay mà sờ vào chỗ lở, bệnh vua do vậy mới lại thêm nặng”. Việc cho rằng “vua nhiều phi tần quá nên mắc bệnh” ám chỉ vua mắc bệnh vì quan hệ với phi tần quá độ.
Nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường suy đoán, cũng có thể vua mắc bệnh lây nhiễm qua đường tình dục. Bởi vì không phải tất cả phi tần, cung nữ trong cung đều miễn nhiễm với các căn bệnh này.
Hơn nữa vua Thánh Tông còn thu nạp vào cung nhiều cung nữ người Chiêm Thành, trong đó có cả vợ của vua Chiêm sau những trận đánh của ông. Vì thế việc vua mắc bệnh truyền nhiễm qua đường tình dục rất dễ xảy ra.
Còn sử gia Vũ Quỳnh viết rằng: “Vua Lê Thánh Tông lâm bệnh phù thũng. Di bị bôi thuốc độc, bệnh của ông càng nặng thêm. Đến ngày 3/3/1497, ông qua đời ở điện Bảo Quang. Tương truyền hôm ấy ấn thần và gương thần đều biến mất”.
Bệnh “phù thũng” theo cách hiểu thông thường và cả y học ngày xưa là chỉ hiện trạng bệnh lở lói, phong hủi…
Tượng thờ vị hoàng đế anh minh của Việt Nam.
Mặc dù căn bệnh mà vua mắc phải không được nói rõ nhưng vua Lê Thánh Tông bị bệnh và mất rất nhanh. Vì trước đó 1 năm, ông còn đi ngự thuyền về Lam Kinh bái yết các lăng tẩm. Hành trình mà ngày nay vẫn dài khoảng 130km, khi vua đã 55 tuổi, chứng tỏ sức khỏe của vua vẫn còn tốt.
Mãi đến cuối năm, sử mới chép “mùa đông, tháng 11, ngày 17, vua không khoẻ”, và đến ngày 30 tháng Giêng năm sau thì vua đã băng hà. Vì thế, khả năng vua mất vì chất độc ngấm vào cơ thể là chắc chắn nhất. Còn trước đó, vua bị bệnh gì dẫn đến lở loét thì vẫn không sử liệu nào nói đến.
Về chuyện quý phi Nguyễn Thị Hằng giết vua mà sử xưa chép, các sử gia sau này cũng đặt nghi vấn, vì nếu chuyện đó có thật thì dòng họ nhà bà sẽ bị tru di. Nhưng sau khi vua mất, triều đình vẫn cứ theo lệnh cũ, đưa hoàng tử Lê Tranh – con trai bà Nguyễn Thị Hằng lên ngôi, lấy hiệu là Hiến Tông.
Sau khi đăng quang, vua Hiến Tông tôn phong mẹ là Trường Lạc Hoàng Thái hậu. Điều lý giải duy nhất là vua Hiến Tông bảo vệ bà bởi vì hành động của bà đã đem lại ngôi báu cho ông.
K.T (Theo Thời Đại )