Phạm Đôn Lễ là trạng nguyên dưới thời vua Lê Thánh Tông. Theo Đại Việt sử ký Bản kỷ thực lục, vì có công dạy dân làng dệt chiếu cói nên ông thường được gọi là Trạng Chiếu. Ông cũng là vị tam nguyên (đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, Hội, Đình) thứ hai trong lịch sử khoa cử nước ta.
Phạm Đôn Lễ sinh năm 1457, quê làng Hải Triều, còn gọi làng Hới, thuộc tổng Thanh Triều, phủ Long Hưng, huyện Ngự Thiên, tỉnh Hưng Yên (nay là thôn Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Lai lịch vị tam nguyên này mang đậm tính lãng mạn và nhân văn. Theo Lễ hội Việt Nam, Lễ là kết quả của mối tình giản dị giữa chàng đánh cá họ Phạm người Hải Dương và cô gái làng Hải Triều bán nước bên sông.
Hai người gặp nhau trong một đêm mưa gió bão bùng. Họ yêu nhau rồi nên duyên vợ chồng. Tuy nhiên, hạnh phúc chưa được bao lâu thì người chồng qua đời. Người vợ vất vả mang thai, sinh Phạm Đôn Lễ.
Hồi nhỏ, ông đi lạc rồi lưu lạc đến xứ Thanh. Một người hiền đức, khá giả nhận nuôi Lễ, dạy bảo ông thành người, cho ăn học tử tế.
Năm 1481, dưới thời vua Lê Thánh Tông, Phạm Đôn Lễ vào kinh ứng thí, đỗ trạng nguyên khoa Tân Mùi. Vì trước đó, ông đỗ đầu kỳ thi Hương và Hội nên được tôn xưng là tam nguyên.
Sau khi Lễ đỗ trạng nguyên, cha nuôi nói hết ngọn nguồn lai lịch. Mặc dù rất biết ơn cha nuôi, Phạm Đôn Lễ vẫn canh cánh về quê nhà cùng người mẹ tảo tần.
Ông tìm về quê, gặp lại mẹ đang sống trong cảnh cô đơn, khốn khó. Sau quãng thời gian hạnh phúc ngắn ngủi, bà cụ qua đời. Mặc dù không lớn lên tại quê nhà nhưng vùng đất Hải Triều vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong lòng trạng nguyên.
Phạm Đôn Lễ vốn giỏi văn thơ, chính trị, kinh tế nên được triều đình trọng dụng. Làm quan đến chức Tả thị lang, ông được cử đi sứ triều Minh.
Trên đường đi sứ qua vùng Quế Lâm, thấy phong cảnh nơi đây hữu tình, đoàn sứ dừng lại thưởng lãm.
Phạm Đôn Lễ tình cờ thấy người dân dệt chiếu nhưng dùng kỹ thuật khác với người dân quê ông, dệt nhanh hơn, cho ra những tấm chiếu đẹp và bền hơn. Thế là ông quyết tâm đưa kỹ thuật dệt này về quê nhà.
Hoàn thành trách nhiệm đi sứ, khi về qua Quế Lâm, trạng nguyên mua bàn dệt chiếu rồi mang về làng Hới. Ông gọi người phường dệt đến tháo nó ra để nghiên cứu nhưng họ than khó và bỏ cuộc.
Phạm Đôn Lễ bèn tự nghiên cứu. Nhờ tư chất thông minh, ông nhanh chóng nắm được cách dệt và truyền lại cho người dân.
Từ đó, nhờ phương pháp dệt mới, chiếu làng Hới nổi tiếng khắp vùng. Trạng nguyên sai người đóng thêm bàn dệt, truyền nghề cho làng khác. Ông còn chỉ dân cách trồng và chăm sóc cói.
Nhờ quyết tâm của Phạm Đôn Lễ, cuộc sống của người dân ngày càng khấm khá. Mọi người yêu mến, gọi ông là Trạng Chiếu.
Ông nổi tiếng là vị quan thanh liêm, hết mực thương dân, tính tình lại cương trực, cực ghét bọn nịnh thần.
Dưới thời vua Lê Uy Mục, triều đình suy thoái, gian thần lộng hành. Phạm Đôn Lễ, lúc đó đã làm đến chức Thượng thư, trở thành đối tượng bị công kích.
Biết chuyện bản thân bị hãm hại, ông liền từ quan, dẫn theo vợ con đến nhiều địa phương để dạy học, truyền nghề dệt chiếu và quyết định định cư tại làng Mỹ Xá, xã Ngọc Sơn, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương.
Trạng Chiếu mở trường, dạy học đến cuối đời. Sau khi ông qua đời, dân làng cảm kích tấm lòng vị trạng nguyên liêm khiết nên xây lăng mộ khá quy mô.
Quê nhà làng Hải Triều cũng lập đền thờ Phạm Đôn Lễ và chạm khắc bài thơ ca ngợi ông:
Nước sông mênh mang nguồn dòng dài
Nhà từ đường rực rỡ, hương hoa ngát thơm
Vị thần giáng xuống ánh sáng rực rỡ
Mây sáng phiêu diêu, xa giá lượn quạnh
Giáng vẻ ung dung, vang khắp mùa xuân
Hát vang bài ca yên vui, điển chương yên lành
Phúc thần dạt dào, nhân kiệt địa linh
Từng bước đi đưa hương, báo đáp thần linh
Đời đời thờ thần, mãi mãi hoà bình.
(Viện Hán Nôm dịch).