Thái tổ Lý Công Uẩn

Xung quanh Lý Công Uẩn, vua sáng lập triều Lý, có khá nhiều truyền thuyết, huyền thoại, nhất là những truyền thuyết, huyền thoại nói về việc nhà Lý thay nhà (Tiền) Lê trị vì đất nước.
Có thể do lúc bấy giờ đạo Phật ở nước ta đã phát triển mạnh, có nhiều đệ tử đến nương nhờ cửa Phật và có nhiều nhà sư trụ trì nổi tiếng thông tuệ, uyên bác, là lực lượng trí thức tiêu biểu của đất nước, và như vậy, điều tất yếu xảy ra là họ đã chuyển dần địa hạt, từ tôn giáo bước sang chính trị - xã hội.
 

Thời Lê Đại Hành có Quốc sư Khuông Việt Ngô Chân Lưu tham chính, làm đến chức Thái sư. Kíp đến thời Lê Trung Tông 3 ngày và Lê Ngoạ Triều 4 năm, trên chính trường đầy rẫy những hành vi bạo ngược, những việc làm thương luân bại lý (như Lê Ngoạ Triều giết anh cướp ngôi, hành hình tù binh man rợ, trói người vào mạn thuyền cho rắn cắn, róc mía trên đầu nhà sư...) đã gây bất bình sâu sắc trong mọi tầng lớp xã hội, và  đó là tiền đề cho ra đời những truyền thuyết huyền thoại nói lên sự tất yếu phải có sự thay đổi chính thể.

Những truyền thuyết huyền thoại này có thể là do sự "dàn dựng" của các nhà sư - trí thức lúc bấy giờ. Nhưng dẫu là như vậy, thì nó vẫn có tác dụng và giá trị, vì như thế đã phù hợp với tâm tư tình cảm và nguyện vọng của mọi tầng lớp dân chúng.

*

*          *

Lý Công Uẩn là người châu Cổ Pháp, nay là Tiên Sơn - Bắc Ninh. Bà mẹ họ Phạm, nhân một hôm đi chơi trên chùa Tiên Sơn (tức chùa Trường Liên trên núi Tiêu ở xã Tương Giang - Tiên Sơn) cảm ứng với thần rồi về có mang, sinh ra Ngài vào năm 974, cuối thời Đinh.

Trước đó mấy tháng, ở viện Cảm Tuyền thuộc chùa Ứng Thiên Tâm trong châu Cổ Pháp, có con chó mẹ đẻ chó con màu trắng nhưng lại có những đốm lông màu đen xếp thành hình hai chữ "Thiên tử". Do vậy mà từ miệng các nhà trí thức địa phương, rồi sau đó là dân chúng trong vùng, đã lan truyền câu chuyện rằng "đến năm Tuất sẽ sinh ra một người làm Thiên tử". Quả nhiên, Lý Công Uẩn sinh ra ở vùng này vào đúng năm Giáp Tuất (974) ấy. Tuy vậy, vì có nhiều người cũng sinh vào năm này, nên sự kiện ấy lúc bấy giờ chẳng có ý nghĩa gì, ngoại trừ việc người mẹ không chồng mà chửa gây nên sự dị nghị của mọi người.

Sinh được ba năm, bà mẹ họ Phạm ẵm đứa trẻ đến nhà Lý Khánh Văn để xin làm con nuôi. Khánh Văn nhận lời, đặt tên khai sinh cho là Lý Công Uẩn.

Lý Khánh Văn vốn là nhà hào phú trong vùng, bản thân lại có học hành và giao du rộng, nên sau khi nhận nuôi Công Uẩn được mấy năm thì cho cậu bé đến chùa Cổ Pháp (tức chùa Lục Tổ ở xã Đình Bảng, Tiên Sơn - Bắc Ninh) vừa để nương nhờ cửa Phật mà cũng vừa để theo học Đại sư Vạn Hạnh, vốn nổi tiếng thông tuệ, uyên bác vào lúc bấy giờ.

Vừa trông thấy Công Uẩn đến chùa, Đại sư Vạn Hạnh đã đoán ngay với Lý Khánh Văn: "Đứa bé này có tướng mạo khác thường, sau này lớn lên có thể giúp vào việc cứu khốn phò nguy trăm họ, làm đến bậc minh chủ trong thiên hạ".
Đại sư rất vui mừng và từ đấy hết lòng dạy dỗ Công Uẩn nên người, và biết được mọi điều hơn lẽ thiệt.

 

Tuy nhiên, theo quan niệm đương thời, Lý Công Uẩn thuở nhỏ không phải là chú bé hiếu học. Tuy bị ép vào khuôn phép nhưng Công Uẩn chỉ học hành sách vở chiếu lệ, còn mọi sở thích là dồn vào việc chơi bời chạy nhảy như phần lớn những trẻ em khác. Duy có điều, trong tất cả các trò chơi, bao giờ Công Uẩn cũng tỏ ra khôn ngoan, trí lự hơn những trẻ em này, và được chúng tôn làm "thủ lĩnh".

Đại sư Vạn Hạnh biết như vậy nhưng Ngài cũng chẳng cấm đoán, ngược lại còn hướng dẫn cho Công Uẩn biết được cái "lý" của các sự việc, hiện tượng, và từ đấy chỉ ra con người khôn ngoan là phải biết hành động như thế nào.

Khi hết tuổi ở nhà chùa, Công Uẩn trở về nhà với mớ kiến thức kinh sử qua loa. Tuy nhiên, là người nhanh trí, nên thơ văn Ngài làm cũng khá trôi chảy, biến hoá.

Lý Khánh Văn giao Công Uẩn trông coi việc nhà và nhiều công việc đồng áng khác, nhưng Ngài cũng chẳng chịu để mấy tâm sức vào làm. Chí hướng của Ngài lúc bấy giờ là còn để vào những sự việc khác, hệ trọng hơn rất nhiều...

Ấy là việc, Đinh Tiên Hoàng, rồi Lê Đại Hành, vốn lúc đầu cũng chỉ là những người bình thường áo vải, nhưng nhờ có võ công và trí lự hơn người, đã trở thành những vị Tướng súy và Hoàng đế lẫy lừng, làm cho cả nhà Tống cũng phải nể sợ, đã kích thích mạnh mẽ chí tiến thủ của nhiều thanh niên có học lúc bấy giờ. Vì vậy, khi có chiếu chỉ của nhà vua về việc gọi trai tráng "nhập ngũ" là Lý Công Uẩn hăng hái lên đường ngay. Sự hăng hái của Công Uẩn còn do một nguyên do khác nữa, là Ngài không muốn ở quê lâu để nghe mọi người đàm tiếu về việc mình không có bố!

*

*            *

Lúc đầu Lý Công Uẩn được bổ sung vào đội quân bảo vệ bốn mặt kinh thành ("Tứ sương quân"), rồi sau đó một thời gian dài, nhờ mẫn tiệp, cung cẩn, được tin tưởng rồi bổ vào quân túc vệ chuyên đi kề cận nhà vua ("Điện tiền quân") vào giữa thời Lê Ngoạ triều.

Khi Lê Đại Hành băng hà (1005), các con trai tranh giành ngôi báu, đánh nhau giằng co đến 8 tháng trời. Hoàng thái tử Long Việt (tức Lê Trung Tông) vừa chính vị được ba ngày thì bị Thái tử Long Đĩnh giết chết, rồi tiếm ngôi, là Lê Ngọa triều.

Trái với tất cả các bầy tôi và người thân tín khác của Lê Trung Tông, khi nhà vua chết thì họ đều chạy trốn, duy chỉ có Lý Công Uẩn là ôm lấy xác vua mà khóc lóc thảm thiết. Hành vi này biểu hiện sự trung tín của một bề tôi, bất chấp cả cái chết đang đe doạ.

Dẫu là một kẻ tàn bạo đến mức sẵn sàng giết hết cả anh em, nhưng Lê Long Đĩnh chẳng những không giết Lý Công Uẩn mà trái lại, còn ban khen là một người trung thành. Và để thưởng công, đồng thời khuyến khích cho sự trung thành ấy - điều mà Lê Long Đĩnh rất cần lúc này - khi lên ngôi, Lê Ngoạ triều đã thăng cho Lý Công Uẩn làm "Tứ sương quân Phó chỉ huy sứ". Gần ba năm sau, tức là trước khi Lê Ngọa triều băng một năm, còn phong thêm cho Lý Công Uẩn làm "Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ" nữa! Điều ấy có nghĩa: Lý Công Uẩn là người chỉ huy đội quân bảo vệ tin cẩn nhất của nhà vua!

*

*          *

Khi làm "Phó chỉ huy sứ..." ở kinh thành Hoa Lư, Lý Công Uẩn thỉnh thoảng cũng về thăm nhà cha nuôi ở làng Đình Bảng. Đây là làng mà đại bộ phận là người họ Lý đang làm ăn tiến phát, cũng là làng rất sùng đạo Phật và có nhiều nhà sư tên tuổi lúc bấy giờ.

Ở trong vùng có chùa Kiến Sơ thuộc làng Phù Đổng, nằm kề cận với nơi thờ Phù Đổng Thiên vương (Thánh Gióng) và cả hai đều là những chốn nổi tiếng linh thiêng từ lâu đời truyền lại.

Thời trước đó, Thiền sư Chí Thành khi tu ở chùa Kiến Sơ có lập một gian nhà thờ thần Thổ địa ở bên phải chùa. Đó cũng là nơi Thiền sư ăn nghỉ và thường xuyên tụng niệm. Sau khi Thiền sư viên tịch, gian nhà ấy cũng đổ nát, chỉ còn trơ nền đất cũ. Người trong làng cho rằng chỗ ấy là linh thiêng, nên thường đến đốt hương cầu khấn ở gốc cây cổ thụ mọc trên nền đất có gian nhà thuở trước.
 

Đến khi sư Đa Bảo đến trụ trì sửa chữa lại chùa Kiến Sở, cho chỗ ấy là nơi thờ nhảm, bèn bảo chú tiểu ra dẹp những đồ thờ cúng kia đi, thì bỗng một hôm, thấy ở thân cây cổ thụ có một bài kệ như sau:

Phật pháp thuỳ năng hộ

Vãng thính trụ Kỳ  Viên

Nhược phi ngô chủng tử

Tả tuỳ biệt sứ thiên

Bất tái Kim cương bộ

Mật tích ná la diên

Mãn không trần số chúng

Thị Phật thành oan khiên.

(Nghĩa: Phép Phật ai hộ trì? Đợi nghe ở chỗ đất Phật. Nếu không phải giống nòi ta, nên sớm rời đi chỗ khác. Nhưng không được đem bộ Kim cương đi. Vết bí mật không nên để lan ra. Những kẻ trần tục như bụi bậm đầy trong không gian mà thờ Phật thì chỉ thành tội lỗi).

Mấy năm sau, lại thấy bài kệ khác, ở dưới bài kệ  kể trên:

Phật pháp từ bi đại,

Uy quang phú đại thiên.

Vạn thần câu hướng hoá,

Tam giới tận hồi toàn.

Ngô sư hành hiệu lệnh

Tà quỉ thục cảm tiên

Nguyện thường tuỳ thụ giới

Trưởng ấu hộ Kỳ Viên.

(Nghĩa: Phép Phật rất từ bi, uy linh trùm cả cõi đời. Muôn vị thần đều hướng theo, ba cõi đều lan khắp. Nay Sư ta thi hành hiệu lệnh, tà quỉ nào dám phạm? Xin thường theo sư để thụ giới, lớn với nhỏ đều trụ trì đất nhà Phật).

Sư Đa Bảo lấy làm lạ, bèn lập đàn trì giới và cúng lễ ngay tại chỗ đó. Dân chúng từ đấy cũng đua nhau làm theo và càng tin tưởng ở sự linh thiêng màu nhiệm.

Khi Lý Công Uẩn về thăm nhà, biết sư Đa Bảo là vị cao tăng, nên lần nào cũng đến viếng thăm. Đọc hai bài kệ trên thân cây cổ thụ, tuy chưa báo trước điều gì cụ thể, nhưng Lý Công Uẩn vốn thông minh lại giỏi tâm lý, cũng hiểu được ý tứ rằng từ nay cần phải dựa hẳn vào các nhà sư và chúng sinh đệ tử làm hậu thuẫn cho mọi công việc, nếu bản thân còn muốn tiếp tục bước lên những địa vị xã hội khác, cao hơn...

*

*          *

Tuy vậy, là người khôn ngoan, bề ngoài Lý Công Uẩn vẫn thản nhiên như thường, như mọi vị quan lại khác, và vẫn dốc lòng lo tròn bổn phận, rất mực được lòng nhà vua đương nhiệm.

Khi ấy, những hành vi bạo ngược của Lê Ngoạ triều càng ngày càng trở nên quá quắt. Nhà vua tuỳ tiện làm nhiều việc như một tên côn đồ khét tiếng. Trăm họ ta thán, oán hận. Nhưng các quan trong triều, kể cả Lý Công Uẩn, đều ngậm miệng như hến, chẳng ai dám can ngăn vì sợ bị mất đầu.

Tuy dẫu không ai nói gì, nhưng trong bụng nhiều vị quan lại lúc bấy giờ, đều hiểu tình trạng này sẽ không thể kéo dài được lâu. Sớm hay muộn thì nhất định cũng phải có một cuộc thay đổi về chính sự. Và Lý Công Uẩn, vốn là người cơ trí, nên hiểu tình trạng tâm lý này của mọi người rõ hơn ai hết.

Trong thời gian ấy, ở trong châu Cổ Pháp quê hương của Lý Công Uẩn, lại xảy ra một sự việc nữa khác thường.

Ấy là việc, một hôm mưa gió sấm chớp làm cho cây gạo ở làng Diên Uẩn bị sét đánh cháy khô hết cành lá. Hôm sau dân chúng đi qua, nhìn lên thân cây, ngay chỗ sạm đen do vết sét đánh, thấy có bài kệ:

Thụ căn diểu diểu

Mộc biểu thanh thanh

Hoà đao mộc lạc

Thập bát tử thành

Đông a nhập địa

Mộc di tái sinh

Chấn cung kiến nhật

Đoài cung ẩn tinh

Lục thất niên gian

Thiên hạ thái bình.

(Nghĩa: Gốc cây thăm thẳm. Ngọn cây xanh xanh. Cây hoà đao rụng. Mười tám hạt thành. Cành đông xuống đất. Cây khác lại sinh. Đông mặt trời mọc. Tây sao náu hình. Sáu, bảy năm nữa. Thiên hạ thái bình).

Đại sư Vạn Hạnh ở chùa Cổ Pháp - Đình Bảng hay tin, tìm đến tận nơi xem xét rồi ghi lại, về nhà đoán giải riêng như sau:

"Thụ căn diểu diểu", chữ căn nghĩa là gốc, tức là vua, chữ "diểu" đồng âm với chữ "yểu", nên đọc là "yểu".

"Mộc biểu thanh thanh", chữ "biểu" nghĩa là ngọn. Ngọn tức là bề tôi. Chữ "thanh" (    ) âm gần với thanh (     ) nên hiểu "thanh" tức là "thịnh".

"Hoà, đao, mộc" ghép lại thành chữ Lê (     ) (họ Lê).

"Thập, bát, tử" ghép lại thành chữ Lý (     ) (họ Lý).

"Đông a" là chữ "trần", "nhập địa" là người phương Bắc vào cướp.

"Mộc di tái sinh" là họ Lê khác lại sinh ra.

"Chấn cung kiến nhật", "chấn" tức là phương đông, "kiến" là mọc ra, "nhật" là thiên tử.

"Đoài cung ẩn tinh", "đoài" là phương tây, "ẩn" nghĩa cũng như "lặn", "tinh" là thứ nhân.

Chắp lại cả bài, Đại sư cho rằng, đây là ý nói: Vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh. Họ Lê mất, họ Lý nổi lên. Thiên tử ở phương đông mọc ra thì thứ nhân ở phương tây lặn mất. Trải qua 6, 7 năm thì thiên hạ thái bình.

Khi Lý Công Uẩn về thăm nhà rồi đến thăm thầy, thì Đại sư Vạn Hạnh kể lại câu chuyện và khích lệ thêm rằng:

- Đây là thiên cơ, cho biết họ Lý cường thịnh, tất sẽ dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng ở triều đình thì chỉ có Thân vệ là người nhân từ độ lượng, được lòng dân chúng, lại đang nắm giữ binh quyền. Vậy đứng đầu muôn dân không phải Thân vệ thì còn ai đảm đương nổi nữa? Ta nay đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết, để xem đức cảm hoá của Thân vệ như thế nào - được như vậy thực là cái may mắn nghìn năm mới có đó.

(Sự việc xảy ra năm 1009, năm sau Lý Công Uẩn lên làm vua, còn Đại sư Vạn Hạnh thì sống thêm 16 năm nữa (1025), chỉ mất trước Lý Thái Tổ 2 năm (1027)).

Nghe thầy nói thế, Lý Công Uẩn mừng thầm trong bụng, nhưng ngay lập tức lại mặt tái đi. Là vì Ngài nghĩ: "Nếu lời đồn này mà đến tai nhà vua thì ắt hẳn mình sẽ không bảo toàn được tính mạng!" Lý Thân vệ vội nói nhỏ với Đại sư Vạn Hạnh:

- Xin thầy chớ tiết lộ điều này với ai cả!

 

Để cho thật an tâm, sau khi từ chùa về nhà, Lý Công Uẩn còn dặn người anh (con đẻ của Lý Khánh Văn) bí mật đưa Đại sư Vạn Hạnh từ chùa Cổ Pháp đến chùa Tiên Sơn và không để cho Ngài tiếp xúc với ai nữa.

*

*          *

Từ đấy trở đi, ở Kinh đô, tuy rất kín đáo, nhưng Lý Công Uẩn vẫn ngấm ngầm chuẩn bị lực lượng cho mình, đưa người thân vào các vị trí quan trọng, và thăm dò ý tứ các quan đồng liêu khác.

Thực ra "Tả thân vệ" không phải là chức quan lớn trong triều. Còn nhiều chức quan khác quan trọng hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong trường hợp cụ thể của triều đình Lê Ngoạ triều này, thì Lý Công Uẩn lại là người có thực quyền và có thế lực hơn cả, chỉ sau nhà vua đương nhiệm.

Điều này cũng dễ hiểu, vì Lê Ngoạ triều là kẻ độc tài và hiếu sát. Một lời ban ra đã là mệnh lệnh, ai trái ý cũng đều bị giết, và do độc tài, hiếu sát, nên Lê Ngoạ triều lo lắng sẽ có người bất thình lình trừ khử, vì vậy nhà vua cho tăng cường quân bảo vệ trực tiếp ("điện tiền quân") thêm lên rất đông (1.000 người). Và chính điều đó đã tạo nên sự bất lợi và bất ngờ mà Lê Ngoạ triều không lường trước được. Lý Công Uẩn luôn luôn tỏ ra trung thành rất mực, và điều đó đã qua mặt được nhà vua.

Đối với các quan trong triều thì những tháng những ngày cuối cùng của Lê Ngoạ triều thật là những tháng những ngày kinh khủng: ai cũng nơm nớp lo sợ bị mất đầu! Lê Ngoạ triều chẳng tin một ai, ngoại trừ quan "Tả thân vệ" Lý Công Uẩn là người bảo vệ số một! Nhưng cũng chẳng tin hoàn toàn.

Lời sấm ngữ ghi trên cây gạo sét đánh ở làng Diên Uẩn một ngày kia cũng lọt đến tai nhà vua thật. Vốn ngày bé lêu lổng không chịu học hành nên chữ nghĩa cũng chẳng ra sao, vì thế, tuy có biết cả bài kệ mà Lê Ngoạ triều cũng chỉ biết ý nghĩa lờ mờ là có người họ Lý sẽ thay quyền họ Lê... Lúc ấy nhà vua đang khoẻ mạnh, lại ở đỉnh cao quyền lực sẵn sàng giết bất cứ ai, nên cho chuyện này chỉ là sự bịa đặt nhảm nhí, không thèm chấp làm gì.

Rồi đến một hôm, khi ấy nhà vua đã phải "nằm bẹp" (ngoạ triều) để dự triều chính thì có quân hầu dâng lên Ngài "ngự thiện" (ăn) một quả khế. Hạt khế vốn nhỏ và mềm nên ăn khế chẳng ai phải nhằn hạt, vậy mà đang nhai Ngài phải nhả ra một cái hạt to và cứng. Nhìn ra đó là một hạt mận. Mận là cây mận, viết bằng chữ Lý, tức họ Lý.

Chẳng biết có phải một bà hoàng hậu hay một vị nào đó trong hoàng tộc, do biết được nghĩa của bài  sấm ký mà đưa hạt mận vào trong quả khế để báo trước mối hiểm hoạ đe doạ Ngài, hay là vì do trời đã sinh ra cái quả khế có hạt mận bên trong như thế, nhưng chỉ biết, sau sự việc này thì Lê Ngoạ triều hoàn toàn chột dạ.

Ngài ngầm ra lệnh cho những tên lính thân cận nhất đi tìm những người có họ Lý mà giết ngấm đi. Nhưng lúc bấy giờ, bản thân Ngài cũng không ngồi dậy được, nên mệnh lệnh của Ngài cũng mất đi phần lớn hiệu lực. Những người họ Lý, hoặc tìm cách đổi họ chớp nhoáng, hoặc đã cao chạy xa bay mất rồi.

Riêng quan Thân vệ, tuy ở sát nách nhà vua nhưng vẫn thản nhiên như thường! Những tên lính mà Lê Ngoạ triều sai đi đâu có xa lạ gì với Lý Công Uẩn. Chúng cũng là lính của Lý Công Uẩn cả, nên làm sao dám vượt mặt mà cả gan bắt Ngài, giết Ngài? Vả lại, Lý Công Uẩn khôn ngoan, đã kịp thời đề phòng ngay. Khi các quan chưa ai hay biết điều gì thì Ngài đã công khai nói trắng ra trước mặt mọi người là mình không phải thuộc họ Lý. Ngài, ngay từ bé, do bố chết sớm nên bà mẹ đã gửi cho nhà chùa nuôi. Ai không tin thì cứ đến chùa Cổ Pháp mà hỏi!... Lời nói của Ngài lại có thêm trọng lượng, vì dưới quyền Ngài còn có bao nhiêu là lính có vũ trang, do vậy, chẳng có ai dám hé răng đả động gì đến Ngài cả.

Rốt cuộc, Lê Ngoạ triều không hề hay biết kẻ sắp thay quyền mình, lại chính là một người tin tưởng thân cận nhất, đang ở ngay bên cạnh và mang dòng họ Lý!

*

*          *

Lê Long Đĩnh lúc ấy mới 24 tuổi. Mới tháng 7 (năm 1009) nhà vua còn thân làm tướng đi đánh các châu Hoan Đường, Thạch Hà. Thuyền rồng rời cửa Hoàn (có thể là cửa Sót) ra ngoài biển, chợt thấy gió to sóng lớn, mây mưa tối sầm, Ngài bèn sai quay thuyền trở lại, rồi đi đường bộ về Kinh sư (Hoa Lư). Gần một tháng sau ngày trở về thì Ngài ốm nặng, rồi mắc bệnh trĩ, phải nằm mà coi chầu, tuy rất gắng gượng. Đời sau, vì thế gọi Ngài là Lê Ngoạ triều.

Đến tháng 10, Lê Ngoạ triều băng ở tẩm điện (nhà ngủ). Tuy có tới bốn hoàng hậu, nhưng con trai lớn nhất của Ngài lúc ấy cũng vẫn còn bé tí.

Lê Đại Hành có đến 11 con trai nhưng những người "có máu mặt" nhất thì đã bị Lê Long Đĩnh giết hoặc "đẩy" đi xa kinh thành rồi. Mấy người ở lại cũng chẳng có quyền hành gì lớn. Vì vậy, khi nhà vua băng hà, thực quyền lập tức rơi vào tay Lý Công Uẩn, còn các đại thần khác chỉ là những danh vị suông.

Khi nhà vua vừa băng, Lý Công Uẩn cùng "Hữu điện tiền chỉ huy sứ" - một người thân cận, tức là người bảo vệ vua ở vị trí  thứ hai, tên gọi Nguyễn Đê, mỗi người đem 500 quân hầu cận của vua vào túc trực trong ngoài điện Bách bảo Thiên tuế là nơi đặt xác vua, và canh gác ở những nơi trọng yếu trong kinh thành.

Đương nhiên, việc bố trí quân lính như thế là đúng với chức trách của vị tướng chỉ huy quân túc vệ. Nhiều người dẫu có biết ý đồ của Lý Công Uẩn thì cũng chỉ nín thinh, vì lo bị vạ miệng. Duy chỉ có quan Chi hậu Đào Cam Mộc là dám nói thẳng với Lý Công Uẩn, nhưng là nói vào lúc chỉ có hai người:

- Chúa thượng là người bản tính ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời đã chán ghét nên chẳng để sống lâu. Nay con nối thì còn nhỏ, không thể đảm đương việc lớn. Từ lâu dân chúng nhao nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này mà nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, để trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ lấy tiểu tiết làm gì?

Công Uẩn trong lòng cả mừng, nhưng vốn khôn ngoan, thận trọng nên nghiêm nét mặt lại mà mắng:

- Sao ông lại dám nói thế. Tôi phải bắt ông đi nộp quan ngay.

Nói rồi Lý Công Uẩn xắn tay định bắt thật. Nhưng Đào Cam Mộc lại mỉm cười mà rằng:

- Xin mời ông cứ việc. Tôi chẳng tiếc gì mạng sống đâu.

Đã tin chắc Đào Cam Mộc nghĩ như vậy thật, nên lúc bấy giờ Lý Công Uẩn mới nói:

- Tôi đâu nỡ cáo giác ông. Nhưng chỉ sợ lời nói tiết lộ ra thì chết cả nút, nên răn ông đó thôi.

Ngay sáng sớm ngày hôm sau, lựa lúc còn vắng người, Đào Cam Mộc lại nói riêng với Lý Công Uẩn:

- Người trong nước ai ai cũng bảo họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi. Thời cơ đang ở trước mắt nhưng chỉ trong một sớm một chiều nay thôi. Thân vệ cần định liệu ngay đi, kẻo không kịp.

Lý Công Uẩn cơ mưu, đã hiểu rõ vấn đề thời cơ này hơn ai hết. Nếu để chậm, khi các thân vương kia liên kết lại được với nhau thì mình sẽ trở tay không kịp... Tuy nhiên, do thận trọng, nên Ngài chưa vội nói trước cho Cam Mộc biết đó thôi. Nay Cam Mộc đã nói ra rồi, vậy thì còn dấu làm gì nữa? Nghĩ thế, Lý Công Uẩn bèn nói luôn:

- Đa tạ tấm lòng tri ngộ của ông. Chắc nhiều người cũng nghĩ như thế, nhưng chưa thấy ai nói ra đó thôi. Nếu bây giờ ông đứng ra nói trước với văn võ bá quan thì chắc hẳn mọi người sẽ đồng tình cả đấy! Chẳng lẽ tôi đã cầm quân lại tự nói cả việc này nữa, thì như thế e không tiện, vì người đời sẽ bảo là tôi cướp ngôi.

Đào Cam Mộc gật đầu, rồi bước đi chỗ khác. Chờ một lúc sau, khi thấy các quan đã đến đông đủ, Cam Mộc liền bước ngay ra giữa chính điện, nói to với mọi người:

- Lâu nay Tiên đế làm nhiều việc hà khắc bạo ngược, khiến cho trăm họ oán hận, không muốn theo về với vua nối nữa. Nay Thân vệ là người đại lượng nhân từ, chúng ta nên nhân lúc này mà sách lập Ngài làm Thiên tử, tức là trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân. Nếu không làm ngay, e có xảy ra tai biến điều gì, chắc chúng ta cũng khó toàn tính mạng...

Cả triều đình lặng ngắt. Cũng chẳng mấy ai cảm thấy bất ngờ khi nghe Cam Mộc nói những điều này. Bởi vậy, khi Cam Mộc dứt câu, đã thấy ngay những lời hưởng ứng: "Phải đấy!", "Phải, phải đấy!"

Thế rồi mọi người xúm vào dìu Lý Công Uẩn lên chính điện, lập làm Thiên tử, và như vậy, nhà Lý đã chính thức thay thế nhà (tiền) Lê.

Sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn phong thưởng rất hậu cho những người đã giúp mình làm nên công nghiệp. Anh em, họ hàng, con cái cho vào nắm các chức vụ quan trọng. Đào Cam Mộc được làm Nghĩa tín hầu rồi được làm Phò mã v.v... Trong việc dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, ngoài lý do Đại La ở vị trí trung tâm đất nước thuận lợi cho việc phát triển dài lâu, còn có lý do Đại La nằm kề cận với đất "thang mộc" của họ Lý (vùng Đình Bảng - Bắc Ninh).

*

*            *

Dạo mới lên ngôi, một lần Lý Thái tổ xa giá về thăm quê rồi đến thăm lại chùa Kiến Sơ. Sư Đa Bảo vội vàng khăn mũ chỉnh tề ra đón rước. Khi vào gần tới cây cổ thụ có hai bài kệ ngày trước, nhà sư nói với cây:

- Phật tử! Ngươi có thể làm thơ mừng đấng "Tân Thiên tử" được chăng?

Vừa nói xong, đã thấy ở thân cây hiện ra bốn câu thơ:

Đế đức kiền khôn đại

Uy thanh tĩnh bát diên

U âm mông huệ trạch

Ưu ốc ná Xung thiên

(Nghĩa: Đức nhà vua lớn, ví như trời đất. Nhờ oai tiếng (mà) tám cõi được yên. Kẻ ở cõi âm (cũng) được nhờ cậy. Ơn còn thấm nhuần đến cả trời cao nữa).

Thái Tổ đọc và hiểu ngay là thơ mừng. Tuy ý tứ có phần đề cao quá mức, nhưng đã làm cho nhà vua vui mừng thực sự, chứ không chỉ là dè dặt giữ ý giữ tứ như những lần trước, khi còn làm ''Phó chỉ huy sứ'' và ''Tả thân vệ''.

Nhà vua mới cao hứng, phong ngay cho cây cổ thụ tước hiệu ''Xung thiên thần vương'', mặc dù ở cạnh chùa đã có đền thờ ''Phù đổng Thiên vương'' (tức Thánh Gióng), mà chính Ngài vừa đã truy phong là ''Xung thiên thần vương'' rồi. Chẳng phải do Ngài sơ suất, mà chủ ý muốn nói Thần Phù đổng Thiên vương cũng phải nhập vào cây để đến làm thơ chúc mừng và ca tụng Ngài.

Cho hay, khi say sưa thắng lợi, lại đang ở đỉnh cao của vinh quang và quyền lực, thì người ta dễ có tâm lý coi trời đất thánh thần và tất thảy mọi thứ khác đều ở dưới tầm con mắt của mình cả (''mục thị vô nhân'')!

Chưa hết! Cùng với việc phong tước, nhà vua còn sai thợ đắp tượng thần có hình dáng rất đẹp và oai phong lẫm liệt. Rồi nhà vua cho tạc thêm 8 pho tượng nhỏ, đứng hầu ở hai bên.

Lạ thay, khi tất cả tượng đắp và tô xong, thì lại thấy ở thân cây hiện ra bốn câu thơ nữa:

Nhất bát công đức thuỷ

Tuỳ duyên hoá thế gian

Quang quang trùng chiếu trúc

Một ảnh nhật đăng san.

(Nghĩa: Một bát nước công đức. Theo duyên hoá cõi đời. Ngọn đuốc vằng vặc soi sáng mãi. Đến sau mặt trời lên gác núi, mất bóng).

Khi ấy Lý Thái Tổ đã xa giá hồi loan về Kinh thành Thăng Long từ hàng tháng trước rồi. Sư Đa Bảo đem mấy câu thơ ấy dâng lên, nhưng nhà vua đọc xong mà không hiểu ý tứ là gì cả. Lại hỏi các vị đại thần hay chữ cùng các bậc cao tăng kiến thức uyên thâm ở trong kinh thành lúc bấy giờ, cũng không thấy ai giải đoán được ý nghĩa.

Thế rồi sự việc ấy cũng trôi đi, chẳng còn ai để tâm tới nữa. Chỉ đến 214 năm sau (1224), khi Lý Huệ tông thoái vị đi tu, ngôi báu về tay họ Trần, thì sau đó người ta mới lại đem đọc những câu thơ này và giải nghĩa của chúng.

Tính ra nhà Lý làm vua, từ Thái tổ đến Huệ tông, cả thảy vừa trọn 8 đời, sao mà đúng với con số 8 vị thần do chính Lý Thái tổ sai làm, đứng hầu xung quanh ''Phù đổng Thiên vương'' đến thế!

*

*          *

Lời tiên tri đã có ngay ở trong bài thơ mà lúc bấy giờ Lý Thái tổ và mọi người đều đoán không ra. Chữ ''bát'' (cái bát, trong câu ''Một bát nước công đức'') đồng âm với ''bát'' là tám. ''Nhất bát'' là một lần tám bằng tám. Còn ''Nhật đăng san'' là chữ ''nhật'' ở trên chữ ''san'', tức là chữ ''sảm'' (   ). ''Sảm'' là tên huý của Huệ tông, vua cuối của triều Lý. ''Sảm'' là ''mặt trời gác núi, hết bóng'', cũng tức là nhà Lý chấm dứt!

Lý Tế Xuyên, tác giả Việt điện u linh bình luận: ''Câu thơ thần diệu là như thế đấy!''

Còn  Ngô Sĩ Liên, vị sử quan biên soạn Đại Việt sử ký toàn thư thì chiêm nghiệm:

''Thế thì nhà Lý được nước là tự trời, mất nước cũng là tự trời vậy!'' 

Ngẫm lại sự việc Lý Công Uẩn vừa mới lên ngôi đã phong cho Thánh Gióng là ''Xung thiên thần vương'', lại còn có ý cho cả ''Xung thiên thần vương'' cũng phải đến đọc thơ chúc mừng và hết lời ca tụng mình nữa, thì thật là quá đáng! Và phải chăng hành vi "phạm thượng" ấy đã "gặt hái" được kết quả ngược lại: Nhà vua tưởng đứng cao hơn thần (Thánh Gióng) nhưng thực tế chỉ là tướng hầu của thần! Cả 8 đời vua cũng chỉ là 8 tướng hầu của thần, chứ có bao giờ được ở trên thần đâu!

Xem thế đủ biết, trí tuệ dân gian thật sáng suốt biết nhường nào. Cứ như là chuyện "thiên cơ" vậy!