Sinh ra trong một nhà nông nghèo, không đủ gạo tiền để theo học, nhưng với bản tính vốn ham học hỏi, Nguyễn Quan Quang thường lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học sách Tam tự kinh.
Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Ông dự kỳ thi Hương, đỗ luôn giải Nguyên. Đến kỳ thi Hội lại đỗ luôn Hội nguyên. Khi vua Trần Th ễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Ông dự kỳ thi Hương, đỗ luôn giải Nguyên. Đến kỳ thi Hội lại đỗ luôn Hội nguyên. Khi vua Trầ ái Tông mở khoa thi Đại tỉ Thủ sĩ, ông trở thành Trạng nguyên.
Nguyễn Hiền – Trạng nguyên nhỏ tuổi nhất
Mạc Đĩnh Chi - Lưỡng quốc Trạng nguyên
Mạc Đĩnh Chi không chỉ là trạng nguyên của Đại Việt mà còn được phong làm "Lưỡng quốc Trạng nguyên" (Trung Hoa và Đại Việt) khi sang sứ Trung Hoa thời nhà Nguyên.
Ông là người Hải Dương. Từ nhỏ đã mồ côi cha, nhà nghèo, hai mẹ con phải đi vào rừng sâu hái củi để kiếm sống hàng ngày. Mẹ ông chịu thương chịu khó dành dụm tiền mong con đi học lấy cái chữ. Hiểu được lòng mẹ, Mạc Đĩnh Chi càng ra sức học tập.
Ông chăm chỉ đọc sách, nghiền ngẫm nội dung, kể cả những lúc gánh củi đi bán. Không có sách học, thì mượn thầy mượn bạn. Không có tiền mua nến để đọc sách, thì Mạc Đĩnh Chi đốt củi, hết củi thỉ lấy lá rừng đốt lên để học.
Với nghị lực phi thường như vậy, chẳng bao lâu Mạc Đĩnh Chi đã nổi tiếng là thần đồng nho học. Khoa thi Giáp Thìn (1304), thi hội, Mạc Đĩnh Chi đỗ Hội nguyên, thi Đình, ông đỗ Trạng nguyên.
4. Lương Thế Vinh - Trạng Lường
Lương Thế Vinh là người Nam Định. Từ nhỏ ông đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim.
Chưa đầy 20 tuổi, tài học của Lương Thế Vinh đã nổi tiếng khắp vùng. Năm 23 tuổi, đời vua Lê Thánh Tông năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên khoa Quý Mùi.
Sau đó, ông làm quan 32 năm với biệt tài về ngoại giao, được nhà vua tin yêu, giao trọng trách soạn thảo văn từ bang giao và đón tiếp sứ thần nước ngoài.
Không những thế, ông hiểu biết sâu rộng, trở thành một nhà bác học khá toàn diện.
Ông dạy cho người đương thời từ phép cửu chương (tính nhân) tiến lên phép bình phương, cách đo bóng (đo bóng cây tính chiều cao của cây), hệ thống đo lượng đương thời (tiền, vải, thóc, gạo ...), toán đạc điền (đo đạc diện tích ruộng đất)...
Nhà bác học Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) đã hết lời ca ngợi Lương Thế Vinh, đánh giá ông là con người có tài kinh bang tế thế, một con người “tài hoa danh vọng vượt bậc”.
5. Nguyễn Thị Duệ - Nữ trạng nguyên duy nhất khoa cử phong kiến Việt Nam
Bà Nguyễn Thị Duệ quê ở Hải Dương, sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo, có truyền thống hiếu học. Vốn là người thông minh, có nhan sắc nên mới hơn 10 tuổi, bà đã được nhiều nhà quyền quí đến xin hỏi cưới, nhưng bà không thuận.
Bà đã phải giả trai để đèn sách đi thi đỗ thủ khoa, trong khi chính thầy dạy chỉ đỗ á khoa. Và bà trở thành nữ tiến sĩ đầu tiên và duy nhất của khoa cử phong kiến Việt Nam khi mới 20 tuổi.
Trong ngày mở tiệc đãi các tân khoa, bà bị phát hiện là giả trai. Tuy nhiên, không những không bị kết tội mà còn được nhà vua hết mực khen ngợi.