Tiểu sử Nguyễn Trãi: Bậc kỳ tài lỗi lạc, sáng như sao Khuê của văn hóa Việt Nam

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Ông là anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.

 

Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, sinh ở Thăng Long trong gia đình ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn ứng Long (tức là Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán.

Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê huyện Thượng Phúc (tức phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông) nay là huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.

Năm 1400, để cứu vãn chế độ phong kiến đang khủng hoảng trầm trọng, Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và tiếp tục thi hành các cải cách như chính sách hạn nô, hạn điền, tổ chức lại giáo dục, thi cử và y tế. 

Ngay sau khi lên ngôi Vua, Hồ Quý Ly mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.

Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc.

Chân dung Nguyễn Trãi

Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù. Nhân lúc vắng vẻ, Nguyễn Phi Khanh bảo Nguyễn Trãi:

– Con là người có học, có tài, nên tìm cách rửa nhục cho nước, trả thù cho cha. Như thế mới là đại hiếu. Lọ là cứ phải đi theo cha, khóc lóc như đàn bà mới là hiếu hay sao?

Nguyễn Trãi nghe lời cha quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước.

Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.

Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách.

Trong bài tựa Ức Trai di tập, Ngô Thế Vinh cho biết: Bình Ngô sách “hiến mưu trước lớn không nói đến việc đánh thành, mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người”.

Lê Lợi khen chiến lược của Nguyễn Trãi là đúng. Và ông đã vận dụng chiến lược này để đánh quân Minh. Từ đây, ông thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.

Cuối năm 1426, Lê Lợi lập bản doanh ở bến Bồ Đề (Gia Lâm). Tại đây, ông cho dựng một cái chòi cao ngang bằng tháp Báo Thiên ở Đông Quan. Lê Lợi ngồi tầng thứ nhất của chòi, Nguyễn Trãi ngồi tầng thứ hai. Hai nhân vật luôn luôn trao đổi ý kiến với nhau.

Trong kháng chiến, Nguyễn Trãi chủ trương phải dựa vào dân thì mới đánh được giặc, cứu được nước. Khi kháng chiến đã thắng lợi, ông cũng thấy rằng phải lo đến dân, thì mới xây dựng được đất nước. Trong tờ biểu tạ ơn được cử giữ chức Gián nghị đại phu tri tam quân sư, ông đã viết: “Chí những muốn, việc cố nhân đã muốn: để tâm dân chúng, mình lo trước điều thiên hạ phải lo”.

Năm 1437, khi vua Lê Thái Tông cử ông định ra lễ nhạc, ông cũng nói cho vua biết những điều mà vua phải làm trước hết là chăn nuôi nhân dân:

 Dám mong Bệ hạ rủ lòng yêu thương và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong thôn cùng xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu. Đó tức là giữ được cái gốc của nhạc.

Do luôn luôn “lo trước điều thiên hạ phải lo, vui sau cái vui của thiên hạ”, Nguyễn Trãi lúc nào cũng sống một cuộc đời giản dị, cần kiệm liêm chính. Nhà của ông ở Đông Kinh (Thăng Long) chỉ là một túp nhà tranh (góc thành Nam lều một gian). Khi ông cai quản công việc quân dân ở hải đảo Đông Bắc, nhà của ông ở Côn Sơn “bốn mặt trống trải, xác xơ chỉ có sách là giàu thôi”

(thơ Nguyễn Mộng Tuân, bạn Nguyễn Trãi).

Trong 10 năm kháng chiến với quân Minh, giúp vua Lê bằng mưu kế: phàm các văn thư từ trát giao thiệp với tướng nhà Minh, đều do một tay ông thảo thiện. Sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất. Triều vua Lê Thái Tông được làm Nhập nội hành khiển (tức Tể tướng). Năm 60 tuổi, về trí sĩ tại Côn Sơn (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ba năm sau, kì án Lệ chi viên gia đình Nguyễn Trãi gặp họa.

Sử chép: Niên hiệu đại bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông (1442), nhà vua đi tuần phương đông, duyệt võ ở Chí Linh, Nguyễn Trãi đón xa giá đến chơi chùa Côn Sơn. Thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ, có tài sắc, được nhà vua vời. 

Khi xa giá đến vườn Lệ Chi (xã Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) nhà vua bị bệnh sốt, Thị Lộ vào chầu suốt đêm rồi vua mất, ai nấy đều nói Thị Lộ thí nghịch, nên Nguyễn Trãi phải tội tru di. 

Năm ấy, Nguyễn Trãi 63 tuổi, có người thiếp đương có thai trốn được, sau sinh ra Nguyễn Ánh Vũ. Đời Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi được minh oan, truy tặng Tế văn hầu. Anh Vũ được bổ chức Tri châu.

Năm 1442, cả gia đình ông bị hãm hại (tru di tam tộc) khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.

Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.

Sự nghiệp thơ văn:

– Nhà văn, nhà thơ lớn: là anh hùng dân tộc, Nguyễn Trãi còn là nhà văn, nhà thơ lớn. Ông còn để lại nhiều tác phẩm có giá trị.

Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi là những thư từ do ông viết trong việc giao thiệp với quân Minh. Những thư này là những tài liệu cụ thể chứng minh đường lối ngoại giao vào địch vận hết sức khéo léo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi làm cho quân Lam Sơn không mất xương máu mà hạ được rất nhiều thành.

“Quân trung từ mệnh tập” là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những giấy tờ giao thiệp với triều đình nhà Minh, nhằm thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là địch vận. 

“Bình Ngô đại cáo” lấy lời Lê Lợi tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về qúa trình chiến đấu gian nan để đi đến chiến thắng vĩ đại cuối cùng giành lại hòa bình cho đất nước. 

Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một “thiên cổ hùng văn”. Đó là một thiên anh hùng ca bất hủ của dân tộc. “Lam Sơn thực lục” là cuốn sử về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. “Dư địa chí” viết về địa lý lịch sử nước ta. “Chí Linh sơn phú” nói về cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ và anh hùng. Các tác phẩm ấy đều là văn bằng chữ Hán.

Về thơ, có hai tập: “Ức trai thi tập” bằng chữ Hán, “Quốc âm thi tập” bằng chữ Nôm, tức chữ Việt, đó là thơ cả một đời, từ lúc trẻ đến tuổi già, nhiều nhất là khoảng 10 năm tìm đường và thời gian về nghỉ ở Côn Sơn. 

Nội dung thấy rõ trong đó là tâm tình đối với quê hương, gia đình, với nước, với dân, với bao éo le trong cuộc đời… Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi là tác phẩm xưa nhất bằng Việt ngữ mà chúng ta còn giữ được. Tác phẩm này rất quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam và lịch sử ngôn ngữ Việt Nam.

– Tình yêu quê hương gia đình: Nội dung thơ văn ông rất phong phú. Đây chỉ nói vắn tắt một vài khía cạnh. Nét đầu tiên là niềm tha thiết với thiên nhiên ở quê hương. Bắt đầu là những cái nhỏ nhặt, tưởng như không đâu, nhưng chan chứa thân thương. Rau muống, mồng tơi, râm bụt, cây chuối, cây đa, cây mía… đều thành vần điệu. 

Đào, liễu, tùng, trúc cao sang đứng liền bên cạnh rau muống, mồng tơi quê mùa một cách tự nhiên. Không chút gì phân biệt sang hèn. Tất cả đều được lòng ông trìu mến. Ông nói một cách trang trọng: “Hái cúc, ương lan, hương bén áo, Tìm mai, đạp nguyệt, tuyết xâm khăn”, mà cũng vừa vui tươi chân chất: “Ao cạn, vớt bèo cấy muống, Trì thanh, phát cỏ ương sen”. 

Hình vẽ minh họa Nguyễn Trãi Và Lê Lợi

Ông phát hiện ra cái đẹp bình dị rất bất ngờ: Đêm trăng gánh nước thì gánh luôn trăng đem về (“Chè tiên nước ghín nguyệt đeo về”). Bầu trời không mây, trong suốt một màu xanh, ông thấy đó là một bầu ngọc đông lại (“Thế giới đông nên ngọc một bầu”). 

Thuyền bè chen nhau gối đầu lên bãi, ông nhìn thành một đám tằm lúc nhúc (“Tằm ươm lúc nhúc thuyền đầu bãi”). Con rùa, con hạc, núi, chim, mây, trăng, ông coi là con cái, là láng giềng, là anh em: “Rùa nằm, hạc lẩn nên bầy bạn, U ấp cùng ta làm cái con…”, “Núi láng giềng, chim bầu bạn, Mây khách khứa, nguyệt anh tam”. 

Có lúc, ông như hòa tan mình vào thiên nhiên đến mức dòng suối, tảng đá phủ rêu, vòm thông tán trúc như hòa nhập với ông làm một: “Côn Sơn có suối rì rầm. Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai, Côn Sơn có đá rêu phơi, Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm, Trong lèn thông mọc như nêm, Tha hồ muôn lọng ta xem chốn nằm, Trong rừng có bóng trúc râm, Giữa màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn”…

(Côn Sơn ca – dịch).

Tiếp theo là niềm tha thiết với bà con thân thuộc ở quê nhà. Thời còn giặc Minh, nhiều năm ông phải lẫn tránh khắp nơi, xa nhà, xa quê, xa bà con thân thuộc với bao nỗi buồn rầụ Đêm thu, xa nhà, bên ngọn đèn khuya, ông day dứt: :Gió thu đến, lá rụng rồi. mình vẫn lận đận quê người, Đêm mưa, bên ngọn đèn leo lét, hồn mộng cứ vẫn vơ mãi nơi đất khách” (Đêm thu đất khách – dịch). 

Tiết Thanh minh đến, theo tục, con cháu phải về thăm mồ mã ông bà, sửa sang, bồi đắp, thắp nén hương tưởng nhớ, cho đúng đạo làm con cháu, thế mà đã bao năm ông không về được. Ông chỉ não lòng: “Thân mình xa ngàn dặm, mồ mã ông bà ở quê không sao giẫy cỏ thắp hương, Mười năm đã qua, những nguời ruột thịt, quen thân cũ đã chẳng còn ai, Đành mượn chén rượu ép mình uống, không cho lòng cứ ngày ngày xót xa nỗi nhớ quê” (Thanh minh – dịch).

Ông mất mẹ lúc mới lên sáu. Lòng con thương mẹ càng nồng. Ông bà ngoại, cậu, dì đều ở Côn Sơn. Quê nội nhiều đời cũng ở đó. Một lần đi thuyền về thăm, ông ôn lại bao nỗi đắng cay trong những ngày lưu lạc. 

Nghe sao mà tha thiết: “Mười năm rồi mình trôi dạc như cánh bèo, Đêm ngày nổi nhớ quê cứ như giày vò trong lòng, Bao lần đã gửi hồn tìm về quê cũ, Nhưng rồi đành nhỏ nước mắt thấm máu mà gội rửa trong tưởng tượng nấm mồ mẹ, mồ mã ông bà, còn xóm làng, bà con, trong lúc giặc giày xéo thì tránh sao được những hành vi bạo tàn của chúng! mà mình thì cứ đang phải thương xót suông, Trời: biết làm sao đây! Một đêm trôi qua bên gối, không cách nào nhắm mắt được” (viết trên thuyền về Côn Sơn – dịch).

– Đời sống trong sạch, suốt đời một lòng vì nước vì dân: Trở về với nông thôn, ông yên lòng và tự hào: “Quê cũ nhà ta thiếu của nào, Rau trong nội, cá trong ao”. Cấy cày là niềm vui: “Một cày một cuốc thú nhà quề, Áng chúc lan chen vãi đậu kê”. Người dân bùn lấm đáng được biết ơn: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. 

Cuộc sống giản dị, nghèo mà thanh: “Bữa ăn dầu có dưa muối, Áo mặc nài chi gấm là”, “Hài cỏ đẹp chân đi đủng đỉnh, Áo bô quen cật vận xềnh xoàng”, xa lánh chốn lợi danh nham hiểm: “Co qoe thay bấy ruột ốc, Khúc khuỷu làm chi trái hòe”. Ông ca ngợi chi tiết của tùng, trúc, mai, ba cây không chịu khuất phục trước giá lạnh mùa đông và ông luôn giữ một tấm lòng trong sạch, một tấm “lòng thơm”.

Nguyễn Trãi là một nhân vật vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. ông là anh hùng dân tộc, là nhà tư tưởng, nhà thơ, nhà văn hóa lớn của nước ta. Tâm hồn và sự nghiệp của ông mãi mãi là vì sao sáng như Lê Thánh Tông truy tặng “Ưc Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”.

Năm 1980, 600 năm sau, ông tiếp tục trở thành sứ giả văn hoá của Việt Nam đưa thông điệp của dân tộc mình đến với nhân loại, bước vào ngôi đền văn hoá thế giớivà trở thành DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI .

Nguyễn Trãi trong lòng quê hương Nhị Khê

Làng Nhị Khê xưa có tên nôm là làng Dũi (thuộc huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam thượng). Nằm ở phía nam kinh thành Thăng Long, Nhị Khê không chỉ nổi tiếng với nghề tiện, cung cấp sản phẩm tinh xảo cho kinh thành và các tỉnh, mà còn là đất văn hiến, khoa bảng với các danh nhân Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Dương Bá Cung, Lương Văn Can, Lương Ngọc Quyến

Sử sách đều ghi tổ tiên Nguyễn Trãi vốn ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Sơn, nay là huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Sau đó, ông nội đưa hai cha con Nguyễn Trãi đến Nhị Khê. Nguyễn ứng Long, cha Nguyễn Trãi, mở trường dạy học ở Trại Ổi. Yêu mến nơi đất lành, ông lấy hiệu là Nhị Khê, dân làng gọi ông bằng tấm lòng tôn sư trọng đạo: Nhị Khê tiên sinh. 

Mới 6 tuổi, Nguyễn Trãi đã chăm chỉ đọc sách thánh hiền.Và Nhị Khê văn hiến – cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn thuở ấu thơ của Nguyễn Trãi, trở thành quê hương thân thuộc với những cánh đồng bãi xanh mướt bên sông Tô như bãi Sếu, đống Hạ, đống Rậm, bờ Ngòi… để từ đây, ông theo gương sáng của người thầy, người cha thân yêu mà luyện chí, đem lòng yêu nước thương dân ra phò vua, cứu nước, xây dựng triều Lê với tư tưởng “Mến người có nhân là dân, mà chở thuyền, lật thuyền cũng là dân”. 

Dâng kế sách củng cố triều chính, chống bọn gian thần nhũng loạn, ông khuyên vua Lê Thái Tông: “Hòa bình là cái gốc của nhạc, thanh âm là văn của nhạc… bệ hạ rủ lòng yêu thương muôn dân khiến cho thôn cùng xóm vắng không có một tiếng hờn giận oán sầu, đó tức là cái gốc của nhạc vậy”. Và ông ý thức sâu sắc trách nhiệm: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”.

Chính đức độ, lòng trung chính, yêu nước thương dân sâu sắc và tài năng kiệt xuất của ông đã dẫn đến thảm án Lệ Chi Viên. Năm Quang Thuận thứ 5 (1464), vua Lê Thánh Tông minh oan và cho con trai duy nhất còn sống sót là Nguyễn Anh Vũ làm tri huyện, cấp 100 mẫu ruộng gọi là ruộng miễn hoàn cho con cháu Nguyễn Trãi. Sau đó, dân làng Nhị Khê dựng đền thờ ông. Thế phả họ Nguyễn ghi: đền dựng ở xóm Trù Lý, đến thời Minh Mạng mới chuyển ra địa điểm hiện nay; năm 1927, đền được đại trùng tu; năm 1932 mới xây cổng đền và tường bao quanh.

Đền có kiến trúc theo kiểu chữ Đinh. Cho đến nay, đền còn lưu giữ được nhiều hiện vật quý: Đôi hạc bằng gỗ mang nét chạm thời Lê; hai đạo sắc phong niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 28 (1768) và niên hiệu Tự Đức năm thứ 6 (1854). Gian giữa đền có hai tấm biển sơn son khắc chữ Hán, tương truyền là của vua Lê Thánh Tông ban cho Nguyễn Trãi khi được minh oan. 

Mặt trước của tấm biển thứ nhất đề “ức Trai tâm thượng quang khuê tảo”; mặt sau đề là “Lê triều khai quốc công thần”. Tấm biển thứ hai đề “Nhị Khê tướng công”. Nét đặc sắc nhất của ngôi đền là các bức hoành phi câu đối rất hàm súc ca ngợi tài đức Nguyễn Trãi. Ngay trên cổng đền là đôi câu đối

Huân nghiệp hách Nam bang, văn mô vũ lược

Khoa danh lưu Việt sử, quốc miếu lương từ.

Dịch nghĩa:

Công lớn dậy trời Nam, tài văn mưu võ

Danh cao ghi sử Việt, miếu nước đền làng.

Trong đền, đại tự khắc trên hoành phi, câu đối đều là những lời châu ngọc ca ngợi bậc khai quốc công thần:

Khai quốc nguyên huân (Người có công đầu mở nước)

Bình Ngô khai quốc (Dẹp giặc Ngô mở nước).

Và:

Mưu vương tướng lược tranh thiên địa

ưu quốc thần tâm chiếu Đẩu Khuê.

Dịch nghĩa:

Mưu vị tướng giúp vua, so với trời đất

Lòng bề tôi lo việc nước, sáng sao Đẩu, sao Khuê.

Trong hậu cung, bức chân dung lớn của Nguyễn Trãi đội mũ quan văn, mặc triều phục đang hiền từ nhìn hậu thế.

Tự hào và ghi nhớ công ơn vị anh hùng, nhà văn hóa lớn của dân tộc, năm 1980, kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi, xã Nhị Khê đã xây dựng quần thể kiến trúc khu đền: hồ bán nguyệt ở phía trước, tượng Nguyễn Trãi do nhà điêu khắc Tạ Quang Bạo thiết kế. Năm 2004, toàn bộ quần thể di tích được trùng tu khang trang. Trường học của Nguyễn Phi Khanh ở xóm Hạ và nhà bia cũng được tôn tạo lại để nhắc nhở con cháu giữ vững truyền thống hiếu học của quê hương.

Hơn 600 năm đã qua, hậu duệ của Nguyễn Trãi ở Nhị Khê tỏa đi khắp đất Việt, từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Thanh Hóa đến Hà Nam, Hưng Yên… với những danh nhân nổi tiếng như Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Du, Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Văn Cừ… Còn ở Nhị Khê, 4 chi họ Nguyễn đã góp phần xây dựng quê hương giàu mạnh, được công nhận là làng nghề, làng văn hóa cấp quốc gia. 

Hằng năm, con cháu họ Nguyễn từ bốn phương trời lòng thành về quê hương bái yết tổ tiên, thắp nén hương thơm trước mộ Tổ và đền thờ Nguyễn Trãi mà lòng càng thêm tự hào về dòng họ, về ngôi sao Khuê của đất nước đã làm rạng danh đất văn hiến Nhị Khê. Dân làng Nhị Khê gọi khu đền thờ Nguyễn Trãi bằng cái tên đầy trân trọng: “Đền Ông Khai Quốc”.

Tổng hợp theo hosodanhnhan