Trạng nguyên nước Việt nào đã xuất gia, những phải lòng người đẹp nên lại... hoàn tục?

Trạng nguyên nước Việt nào đã xuất gia, những phải lòng người đẹp nên lại... hoàn tục?

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, nổi tiếng trong số những người đỗ Trạng nguyên dưới thời Lê Thánh Tông là Vũ Kiệt. Ông là Trạng nguyên thứ 4 của nhà Hậu Lê và là Trạng nguyên đứng thứ 13 trong danh sách 48 vị Trạng nguyên của nước ta. Dưới thời phong kiến, đỗ Trạng nguyên là một niềm vinh dự tột bậc mà các nho sinh, học trò thời xưa mơ ước, dồn tâm sức, trí lực “sôi kinh nấu sử” mong có ngày được ghi tên trên bảng vàng. Thế nhưng sau khi đỗ trạng rồi mà lại từ bỏ con đường quan lộ để đi làm một nhà sư... thì quả là chuyện lạ của Trạng nguyên Vũ Kiệt.

Cũng theo sách trên, sau khi làm quan một thời gian, Vũ Kiệt vì buồn chán nên đã treo ấn từ quan về quê xuất gia tu hành tại chùa Kênh (nay thuộc xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh). Và ý định xuất gia đầu Phật, xa lánh việc thị phi ở chốn quan trường cùng những ganh đua danh lợi của người đời tưởng chừng đã đạt được, thế nhưng thực tế trong tâm trí của Vũ Kiệt vẫn không dứt hẳn được những trăn trở, mong muốn cống hiến cho dân, cho nước của mình.

Ảnh minh hoạ.

Chuyện xưa kể lại rằng, ở làng Mèn (nay là làng Mãn Xá, xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có một cô gái xinh đẹp, giỏi giang và biết được tâm sự ấy của Trạng nguyên Vũ Kiệt nên đã tìm cách tiếp cận nhà sư. Một hôm, đến lễ chùa, nhân lúc vắng vẻ cô gái đã đọc vế đối thăm dò:

 

- Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng nó kềnh cổ lại.

Biết ý cô gái khuyên mình đừng nên xa lánh cuộc đời, nhưng Vũ Kiệt từ chối, tỏ vẻ không còn tha thiết với cuộc đời trần tục rồi đối lại rằng:

- Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi xuống cọc, nó cạch đến già.

Câu đối của hai người sau này trở thành một trong những câu đối hay trong kho tàng câu đối Việt Nam. Sự độc đáo của nó được thể hiện ở nghệ thuật chơi chữ điêu luyện, với các từ đồng âm dị nghĩa. Câu đối của cô gái có bốn chữ công, kênh, cồng, kềnh thì ở vế đáp của mình, Vũ Kiệt dùng bốn chữ cóc, cách, cọc, cạch để đối lại.

Mặc dù bị khước từ, nhưng cô gái vẫn không chịu bỏ cuộc. Vào một hôm rằm, cô mang lễ lên chùa cúng Phật, sau đó nhìn nhà sư rồi đọc mấy vần thơ: Tội gì ở chốn dưa rau; Về nhà trên trướng dưới lầu thảnh thơi. Đêm nằm có thiếp sánh đôi; Chồng loan, vợ phượng hơn đời Hán gia. Tu hành chi đến cõi gia; Đường sang Tây Trúc biết là có không?

 

Trước tình cảm của cô gái làng Mèn, trái tim của nhà sư Vũ Kiệt đã rung động và ông trả lời rằng: Nghe lời nàng nói vừa lòng; Trời xuân thắt chặt chữ đồng cả hai. Đẹp đôi gái sắc, trai tài; Gương soi in bóng, phấn trời điểm trang. Xuân hè khéo nở một hàng; Gái trai đầy đủ rộn ràng đình vi. Sau đó, ông từ giã đường tu tiếp tục dấn thân, góp sức vào việc dân, việc nước và làm lễ hỏi cưới cô gái kia, sống đời hạnh phúc bên người vợ yêu của mình.

Về chuyện này, đời sau có câu thơ rằng: Chùa Kênh sư bác - thần thông; Thảo lư lai vãng, bỏ không phí mà! Và sau khi hoàn tục, Vũ Kiệt làm quan trải nhiều chức vụ, dần dần được thăng tới chức Hàn lâm Viện thị thư, Tả thị lang kiêm Đông các hiệu thư.

Trong số các trạng nguyên nước ta, có nhiều người gắn bó, liên hệ với chốn tu hành, như trường hợp Lê Ích Mộc (đỗ năm Nhâm Tuất 1502). Ông vốn xuất thân là một đạo sĩ tu theo đạo Lão, nhưng rất thông hiểu kinh Phật. Hay như Nguyễn Kỳ (đỗ năm Tân Sửu 1541), nhờ nhà chùa cưu mang giúp đỡ mà thành tài... Và cùng với Vũ Kiệt, câu chuyện về vị trạng nguyên duy nhất đi tu đã trở thành một giai thoại độc đáo trong kho tàng chuyện kể về các ông trạng nước Nam.

Người xưa có câu rằng “Anh hùng khó qua ải mỹ nhân” và câu này quả là không hề sai đối với Trạng nguyên Vũ Kiệt. Và cũng chính nhờ lời khuyên tế nhị mà vô cùng sắc sảo của cô gái trong giai thoại trên, mà Trạng nguyên Vũ Kiệt đã hoàn tục để tiếp tục giúp ích cho đời, cho dân và cho nước. Những cống hiến của ông cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị, nhất là tư tưởng, quan điểm chống tham nhũng, lãng phí của ông. Theo Trạng nguyên Vũ Kiệt, nguyên nhân chủ yếu của nạn tham nhũng là do quan lại mang nhiều thói hư tật xấu của kẻ tiểu nhân.

Vì vậy, ông cho rằng muốn loại trừ tận gốc tham nhũng thì phải chấn chỉnh hệ thống quan lại, trước hết là quan lại có chức tước lớn, quyền hành nhiều. Và ông đã nói: Nếu các bậc quan trên không tốt mà lại muốn quan lại cấp dưới liêm khiết, thì khác nào nước trên nguồn đục mà lại mong nước dưới nguồn trong sạch. Từ quan điểm ấy, ông đã nêu lên hai biện pháp chính để chống nạn tham nhũng: Một là tuyển chọn những người tài -đức song toàn, liêm chính; lấy danh vị mà trao trọng trách cho họ. Hai là kiểm soát, biểu dương, khen thưởng những quan liêm khiết; đồng thời phải công khai danh tính những hạng ô lại và thủ đoạn ô lại của họ. Và chỉ riêng điều này cũng đã là quá đủ để tên tuổi và sự nghiệp của ông sống mãi với non sông đất Việt.

THEO DANVIET