Vì sao gọi Nguyễn Thiến là trạng nguyên không gặp thời?

Nguyễn Thiến - Vị trạng nguyên không gặp thời

Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, Nguyễn Thiến sinh năm nào không rõ, mà chỉ biết ông mất năm 1557 tại Thanh Hoa. Sinh thời, ông được nhà Mạc phong là Thư quận công, rồi Thượng thư. Đặc biệt, Nguyễn Thiến còn là Trạng nguyên của nhà Mạc khoa thi năm 1532 thời vua Mạc Thái Tông. Đồng thời, ông cũng là quan của nhà Lê trung hưng. Quê ông ở làng Tảo Dương, phủ Thanh Oai (nay thuộc thành phố Hà Nội). Ông đỗ Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn, năm Đại Chính thứ ba (1532) triều vua Mạc Thái Tông, ông từng được phong giữ chức Thượng thư bộ Lễ.

Nguyễn Thiến là bạn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm, cha của Nguyễn Quyện và là danh tướng trụ cột của nhà Mạc cùng với tướng Nguyễn Miễn. Ông rất quý trọng, tin phục và giao du thân tình với Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông được Trạng Trình đánh giá là người “thành tín, chính trực, hiểu biết nhiều”.

Ảnh minh hoạ.

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng ở nhờ nhà Nguyễn Thiến và làm thầy dạy cho Nguyễn Quyện trước khi đỗ Trạng nguyên năm Ất Hợi (1535). Nguyễn Thiến được nhà Mạc trọng dụng. Ông cùng Thái tể Lê Bá Ly là thông gia.

Sau khi vua sáng Mạc Đăng Doanh mất (1540), Thượng hoàng Mạc Đăng Dung đau buồn mà chết (1541), vua Mạc Phúc Hải cũng chết yểu (1546). Nhà Mạc biến loạn, nội bộ lục đục. Năm 1550, Thái tể Lê Bá Ly mâu thuẫn với cha con sủng thần Phạm Quỳnh - Phạm Dao và bọn loạn thần Nguyễn Văn Thái, Đặng Văn Trị,... từ ngấm ngầm đến chia rẽ, đối địch. Thượng thư Nguyễn Thiến đứng về phía Thái tể Bá Ly. Khiêm vương Mạc Kính Điển phụ chính đại thần lo phe phái mạnh của Mạc Chính Trung và có ơn với nhà Phạm Quỳnh nên không làm chủ được chính sự.

Trong khi đó, vua Mạc Phúc Nguyên còn trẻ lại tin lời xúc xiểm của loạn thần. Cha con Phạm Quỳnh, Phạm Dao đã bất ngờ đưa quân cấm vệ đến vây dinh Thái tể Lê Bá Ly và Thượng thư Nguyễn Thiến. Hai ông trốn thoát đã đem binh Sơn Tây và Kinh Bắc về đánh lại quân của Phạm Quỳnh và Phạm Dao. Vua Mạc Phúc Nguyên trốn ra ngoài thành và xuôi thuyền bí mật về Kinh Dương để gặp Mạc Kính Điển. Trong tình thế cấp bách, Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến đã không kịp hỏi kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm mà vội dẫn gia quyến đi suốt đêm trốn vào ải Thanh Hóa xin hàng nhà Lê. Trong các con đi theo có Nguyễn Quyện và nhiều người đang làm tướng triều Mạc như Lê Khắc Thận, Nguyễn Miễn... Mỗi người đem hơn trăm quân bản bộ.

Nguyễn Thiến và Lê Bá Ly về theo nhà Lê vẫn được giữ nguyên tước hiệu cũ và đã làm tổn thất đặc biệt nghiêm trọng nguyên khí của nhà Mạc trong sự kiện này. Tháng 3/1551, Trịnh Kiểm đem 1 vạn quân, cử Lê Bá Ly, Nguyễn Quyện, Lê Khắc Thận làm tiên phong, phối hợp chặt chẽ với Vũ Văn Mật tiến đánh Tuyên Quang, sau đó thọc về đánh chiếm kinh thành Thăng Long. Quân Mạc thua chạy. Trịnh Kiểm chiếm được kinh thành nhưng ông lường được binh lực nhà Mạc còn rất mạnh trong khi vùng đất căn bản của Nam triều đang để ngỏ nên đã kéo quân vào lại Thanh Hoa.

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm vì nhà Mạc đã làm bài thơ gửi cho Nguyễn Thiến với ý thuyết phục ông trở về với nhà Mạc. Nguyễn Thiến xem thư, trong lòng cảm thấy bứt rứt. Năm 1557, cả Lê Bá Ly và Nguyễn Thiến cùng mất ở Thanh Hoa. Các con ông là Nguyễn Quyện, Nguyễn Miễn đã cùng nhau trở về theo lại nhà Mạc và Nguyễn Quyện trở thành danh tướng dưới quyền Mạc Kính Điển.

Từ thế kỷ XVI đến XVIII ở nước ta có 4 thế lực phong kiến tham gia tranh giành quyền lực (Lê, Trịnh, Mạc, Nguyễn), trong đó có 3 thế lực cát cứ riêng đó là: Bắc triều (Mạc), Nam triều (Lê - Trịnh), Đàng trong (Nguyễn). Từ năm 1668 chỉ còn hai thế lực: Lê - Trịnh ở Đàng ngoài, Nguyễn ở Đàng trong thế nhưng chỉ có vua Lê là “chính danh” vì đã được “Thiên triều” sắc phong. Nếu cướp ngôi của vua Lê, chúa Trịnh sẽ bị phạm 2 điều cấm kỵ: Thứ nhất chúa Trịnh bị coi là “phản nghịch”, dư luận trong nước sẽ phản đối. Thứ hai là sẽ bị “Thiên triều” trừng phạt. Vì thế nên chúa Trịnh không những không cướp ngôi của vua Lê giống như Mạc Đăng Dung và cũng không có mưu đồ cát cứ kiểu như tập đoàn phong kiến nhà Nguyễn ở Đàng trong, mà chúa Trịnh đã khôn khéo “lựa thời” từng bước lấn át, tiến tới tiếm quyền của vua Lê, biến vua Lê thành “cái bóng” và thực sự vua Lê đã bị biến thành “cái bóng”.

Và trong thời buổi hỗn loạn đó, triều đình vua Lê muốn tồn tại được phải nhờ cậy vào thế lực của chúa Trịnh. Ngược lại, chúa Trịnh muốn tiêu diệt được các đối thủ của mình cũng phải dựa vào “cái bóng” của vua Lê... Nói một cách công bằng, cả hai tập đoàn phong kiến này đều phải cần đến nhau để tồn tại. Vì thế, chúa Trịnh không dám cướp ngôi của vua Lê. Chính vì thời cuộc như thế nên nhân tài như cha con Nguyễn Thiến, Nguyễn Quyện và các bậc danh tướng đương thời khác không có chốn dung thân, không có đất dụng võ, còn nhân dân thì lầm than, đói khổ vì chiến tranh liên miên. Thế mới hay rằng, một nước mà có đến hai vua, ba phái mà chẳng vua nào xứng ngồi trên ngai vàng thì trăm quan làm sao không loạn, bách tính làm sao tránh khỏi cảnh binh đao?

THEO DANVIET