Theo sách "Đại Nam chính biên liệt truyện", Trần Đình Túc quê ở làng Hà Trung, xã Gio Châu, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị. Tuy nhiên, ông tổ bảy đời của Trần Đình Túc là Trần Đổng theo Nguyễn Hoàng vào Nam. Thân phụ của Trần Đình Túc là Trần Trung từng làm quan Hiệp trần Phú Yên dưới thời Gia Long. Trần Đình Túc là con thứ hai của Trần Trung.
Năm Thiệu Trị thứ hai (1842), Trần Đình Túc đỗ cử nhân và bắt đầu ra làm quan từ đó. Về sau, ông làm quan đại thần của nhà Nguyễn, dưới thời vua Tự Đức và từng giữ các chức: Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội, Ninh Bình), Hiệp biện Đại học sĩ. Trần Đình Túc là một trong những đại thần chủ chốt trong việc nghị hòa với người Pháp, khi Pháp xâm lược Việt Nam.
Ảnh minh hoạ.
Thời điểm Trần Đình Túc ra làm quan cũng là thời chính sự nước nhà rất rối ren, trong thì phong trào nông dân rầm rộ nổi lên khắp nơi, ngoài thì quân xâm lăng tràn vào cướp nước. Tháng 4 năm Quý Hợi (1863), Trần Đình Túc đương chức Tá lý, xin với vua Tự Đức cho mộ người khẩn hoang ở hai tỉnh Thừa Thiên và Quảng Trị, vua chuẩn cho làm Doanh điền sứ. Tháng 3 năm 1864, Trần Đình Túc mộ dân khai khẩn lập ấp tại làng Lương Điền, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên.
Năm Mậu Thìn (1868), Trần Đình Túc đi ngoại giao từ Hồng Kông (Hương Cảng) trở về, ông cùng Nguyễn Huy Tề đã trình tấu với Tự Đức rằng: Triều đình nên cho mở thương cảng tại cửa biển Trà Lý, nay thuộc tỉnh Thái Bình, nhưng nhà vua không nghe. Tháng 10 năm 1869, Trần Đình Túc đang giữ chức Tán lý quân thứ Tuyên Quang, lo ngại Lưu Vĩnh Phúc gây trở ngại cho buôn bán ở Bảo Thắng - Lào Cai, lúc đó thuộc Tuyên Quang, tâu về triều xin giao cho Nguyễn Bá Nghi là Tổng đốc Sơn - Hưng - Tuyên, thương lượng với tướng nhà Thanh là Phùng Tử Tài gây sức ép triệu Lưu Vĩnh Phúc về nước. Vua Tự Đức đã nghe theo.
Năm Tự Đức thứ chín, tức năm Bính Thìn - 1856, vua Tự Đức bổ dụng Trần Đình Túc làm Tùy biện ở quân thứ Quảng Nam. Vua sai người chạy ngựa trạm vào, đón Trần Đình Túc về kinh đô để hỏi về ba chước là đánh, giữ hay hòa với quân Pháp. Trần Đình Túc xin dâng kế thanh dã (tức là kế làm vườn không nhà trống) và nói rằng kế ấy dẫu giặc có tiến đánh thế nào cũng chẳng có gì để ăn. Cứ thế mà làm mãi, sau nếu có hòa cũng không sao.
Các chước mà nhà vua nói đến ở trên là những chước dự định ứng phó với người Pháp. Hai năm sau ngày nhà vua hỏi ý kiến Trần Đình Túc, thực dân Pháp chính thức nổ súng xâm lược nước ta. Năm 1862, triều đình Huế phải cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ, năm 1867 lại phải cam lòng cắt nốt ba tỉnh miền Tây Nam kỳ cho thực dân Pháp. Năm 1873, thực dân Pháp tấn công Hà Nội. Cuộc chiến tranh xâm lược của chúng đã lan rộng ra cả nước.
Cũng sách trên viết tiếp: Năm Tự Đức) thứ 26, tức năm Quý Dậu - 1873, đến lượt khu Đông Nam thành Hà Nội bị đánh úp. Sau đó, tỉnh Ninh Bình cũng bị mất về tay giặc. Phái viên của Pháp là Các Nhi (tức Francois Garnier) có ý muốn thương lượng. Khi ấy, nhà vua sai Trần Đình Túc lãnh chức Tổng đốc Hà Nội cùng với quan Tuần phủ mới của Hà Nội là Nguyễn Trọng Hợp và quan Án sát là Trương Gia Hội đi thương lượng. Ý của nhà vua khi ấy là muốn bàn luận sao đó để lấy lại được thành trì. Nhưng ngay lúc đó, Trần Đình Túc lại tâu rằng: Ở cõi phái Đông này, người Âu đến đâu phải chỉ có một nước, cho nên rõ ràng không thể lấy sức mà chống lại được. Nay, xin được chuyển thế cuộc: Tất cả quan binh nhất loạt vừa mới phái tới hãy tạm đình chỉ và cho họ lưu lại ở đâu đó, thần sẽ xin cùng với các quan cộng sự đi ngay Hà Nội để thương lượng. Và vua Tự Đức đã nghe theo.
Năm 1883, Trần Đình Túc được vua Tự Đức giao cho làm Chánh sứ trong việc thương thuyết ký kết Hòa ước Quý Mùi (Hiệp ước Harmand) với Pháp, thừa nhận Nam kỳ là thuộc địa của Pháp, đồng thời chấp nhận nền bảo hộ của Pháp ở Bắc kỳ và Trung kỳ, chính thức chấm dứt nền độc lập của Việt Nam.
THEO DANVIET