Sài Gòn tranh tối tranh sáng
Sau khi để mất Tây Nguyên và duyên hải miền Trung, Nguyễn Văn Thiệu đã nhìn thấy sự sụp đổ trong nay mai của chế độ Sài Gòn. Về phía Cách mạng, sau thắng lợi ở Tây Nguyên, Đảng đã nhìn rõ và quyết tâm chớp thời cơ tiến lên giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975.
Nhưng vào lúc đó, ở Sài Gòn, giới chính trị vẫn tin vào một giải pháp với “lực lượng thứ ba” có thể trì hoãn được bước tiến của quân Giải phóng. Người Mỹ cũng cho đó là một con bài tốt. Bởi vậy họ lập tức tìm cách nắm lấy nó với hy vọng nếu thành công thì họ vẫn còn ảnh hưởng ở miền Nam sau khi Thiệu sụp đổ.
Bây giờ Mỹ mới quay lại với những tuyên bố phản đối Thiệu của Hà Nội và tin rằng Thiệu là sự cản trở duy nhất cho cuộc nói chuyện với Hà Nội. Với ý nghĩ như vậy, Mỹ ép Thiệu phải từ chức vào ngày 21/4/1975 để Trần Văn Hương lên làm Tổng thống.
Thiệu ra đi để lại một khoảng trống quyền lực và ngay tức khắc, tạo ra một cuộc tranh giành giữa các phe phái trong giới chính trị Sài Gòn.
Đầu tiên là Trần Văn Hương. Ông lão 70 tuổi này là Phó Tổng thống dưới thời Thiệu. Theo Hiến pháp chế độ Sài Gòn, Hương lên làm Tổng thống thay Thiệu. Tuy nhiên, Hương chưa yên tâm vì Thiệu vẫn còn ở Sài Gòn.
Lấy lý do rằng nếu để Thiệu ở lại có thể phía bên kia sẽ cho rằng Chính phủ của Hương chỉ là một “chính phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Do vậy, Hương tìm cách đẩy Thiệu rời Việt Nam.
Để thuận tiện, Hương ký nghị định cho Thiệu làm đặc sứ chế độ Sài Gòn sang Đài Bắc phúng điếu Tưởng Giới Thạch vừa qua đời. Tối 25/4, Thiệu đã rời Sài Gòn sang Đài Loan trên máy bay Mỹ. Và để chứng tỏ mình có thực quyền, ông Hương đã yêu cầu gỡ bỏ hết các áp phích chống cộng đồng thời cử người đến trại Davis trong sân bay Tân Sơn Nhất nói chuyện với phái đoàn của Chính phủ CMLT nhưng không đem lại kết quả gì.
Một thế lực khác được coi như đại diện “lực lượng thứ ba” là phe nhóm của tướng Dương Văn Minh. Theo hồi ký của dân biểu Lý Quí Chung – một thành viên trong nhóm, từ đầu tháng 4, phe nhóm này đã bàn bạc và hạ quyết tâm giành lấy quyền lực chính trị ở Sài Gòn để thương lượng với Hà Nội và Chính phủ cách mạng lâm thời về một giải pháp chính trị cho miền Nam.
Cũng theo hồi ký của ông Chung và một vài người khác trong nhóm sau này khẳng định mục đích của họ chỉ nhằm đi đến chấm dứt chiến tranh để máu không còn phải đổ nữa. Để thực hiện việc đó họ dự liệu các biện pháp: hoặc thương lượng, hoặc bàn giao chính quyền hoặc là đầu hàng.
Tuy nhiên, nhiều thông tin khác cũng chỉ ra rằng vào ngày 28/4 khi ông Minh lên nắm quyền ông đã không đầu hàng ngay mà vẫn hi vọng vào một giải pháp chính trị. Điều này thể hiện trong câu chuyện giữa ông Minh và viên tướng Timmes.
Cuốn sách của Nguyễn Hữu Thái viết: “Ngay trong sáng hôm đó (28/4), một nhân viên CIA cao cấp và là người quen biết lâu năm của tướng Minh là tướng Timmes đến chào xã giao. Khi hỏi tướng Minh còn có thể làm được gì với tình hình hiện nay. Ông Minh nói nghiêm chỉnh rằng còn có giải pháp và trình bày vắn tắt ý đồ của ông. Nghe xong, tướng Timmes thở dài và nghĩ rằng: Cho đến lúc này mà tướng Minh vẫn còn ảo tưởng bám lấy ý đồ không tưởng đó của Pháp”.
Những người Pháp “mộng du”
Những ngày cuối cùng của chính quyền Sài Gòn, các đại sứ quán phần lớn di tản khỏi Sài Gòn nhưng sứ quán Pháp thì lại hoạt động tích cực hơn bao giờ hết. Thông qua ông đại sứ Mérillon, Chính phủ Pháp tích cực vận động một giải pháp chính trị cho miền Nam. Họ cũng cử một viên tướng già tên là Vanuxem giả danh ký giả của báo Carrefour (Ngã Tư) đến Sài Gòn để giúp sức Mérillon.
Ông Mérillon tuyên bố: “Chính phủ Cách mạng lâm thời xác định họ mong muốn thương thảo để có được một sự chấm dứt êm đẹp cho cuộc chiến. Bản thân người Pháp cũng muốn đóng vai trò tích cực nhằm tránh một cuộc tắm máu tại Sài Gòn”.
Nhưng mục đích thật sự của Pháp chỉ là kéo dài thời gian, làm chậm bước tiến của quân Giải phóng để tạo ra một chính phủ trung lập ở miền Nam. Sâu xa hơn, người Pháp muốn quay lại lấp chỗ trống ở xứ này sau khi Mỹ rút đi. Họ sẽ lợi dụng những người thuộc lực lượng thứ ba thân Pháp để làm suy giảm thế lực cách mạng và kéo dài một chế độ miền Nam kiểu cũ trong vòng tay Pháp.
Đợt hoạt động ngoại giao của Pháp cũng đã được nhà sử học Gabriel Kolko nhắc đến trong cuốn Giải phẫu một cuộc chiến tranh. Kolko viết: “Trong lĩnh vực ngoại giao, có một đợt hoạt động liên tục. Người Pháp bây giờ tích cực nhảy vào cuộc và được những nhà chính trị đầy mưu đồ của Sài Gòn giúp đỡ nhằm thiết lập lại ảnh hưởng của họ trên thuộc địa cũ. Sau khi Buôn Ma Thuột bị mất, Pháp đề nghị với Cộng sản một phương án mới gạt Thiệu và thi hành Hiệp định Paris”.
Cách mạng cũng không lạ gì tâm địa Pháp nhưng những hoạt động của họ cũng tạo ra những điều tốt nhất định cho Cách mạng. Kolko viết tiếp: “Đảng quyết định nghe họ một cách lịch sự, không làm nản lòng bất kỳ cố gắng nào có thể làm yếu Việt Nam cộng hòa và tránh cho họ phải mất thêm sinh mạng một cách không cần thiết”.
Cho tới khi Xuân Lộc đã mất, vòng vây quanh Sài Gòn đã khép chặt và trận pháo kích vào Tân Sơn Nhất như tuyên bố rằng giờ đây mọi thương thảo là không còn giá trị thì người Pháp vẫn ngoan cố vận động. Theo Nguyễn Hữu Thái đến tận sáng 30/4 người Pháp vẫn chưa từ bỏ ý định của mình mà vẫn còn khuyên tướng Minh cầu viện ngoại bang để duy trì miền Nam.
Ông Thái kể: “Vanuxem cho biết ông muốn hiến kế cho ông Minh để cứu vãn tình hình tuyệt vọng của chế độ Sài Gòn. Theo Vanuxem, nên lên tiếng kêu gọi sự can thiệp của một cường quốc, và chỉ cần có một yêu cầu chính thức của chính quyền miền Nam là cường quốc này sẽ can thiệp ngay”. Nhưng Dương Văn Minh trả lời thẳng thừng rằng trong đời ông ta đã làm tay sai cho Pháp rồi cho Mỹ và bây giờ ông không muốn làm tay sai cho một nước nào nữa.
Như thế, trong 10 ngày cuối cùng của chế độ Sài Gòn, trước diễn biến tất yếu của lịch sử, vẫn còn nhiều thế lực ngoại bang thèm muốn miền Nam. Có nước lại còn buồn bực vì Việt Nam đã thống nhất.
Trong hoàn cảnh đó, tất nhiên nếu ông Dương Văn Minh giữ đầu óc hiếu chiến hạ lệnh cho quân đội quyết chiến thì cũng không thể xoay ngược bánh xe lịch sử. Có hai nguyên nhân căn bản. Thứ nhất thế và lực của quân Giải phóng là áp đảo không gì cản nổi. Thứ hai chính lực lượng quân Sài Gòn cũng không còn bao nhiêu. Trong số ít ỏi đó cũng chỉ có một số rất ít là có đầu óc hiếu chiến và sẵn sàng tử chiến còn phần lớn đã rã ngũ để về lo cho gia đình mình. Tuy nhiên, ý nghĩa trong quyết định đầu hàng của ông Minh là giúp cho máu của người Việt Nam bớt đổ như cách nói của tướng Nguyễn Hữu Hạnh là “Không nên để đổ máu ở giờ thứ 25”.
THEO DANVIET