Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư”, cũng như thần phả ở đền thượng, thôn Bảo Tháp, xã Đông Cưu, huyện Gia Lương (nay là làng Bảo Tháp, xã Đông Cứu, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh) do Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính Phụng soạn, thì Lê Văn Thịnh sinh ngày 11/2 năm Canh Dần (1050).
Lên 7 tuổi, Lê Văn Thịnh đi học, đến năm 13 tuổi thì các sách như kinh, sử, thi thư đều biết hết, thiên văn địa lý tỏ tường và được học trò thời ấy thán phục rồi gọi ông là thần đồng. Đến năm 18 tuổi, bố mẹ mất ông lo an táng chu đáo và ở nhà hương khói thờ phụng. Sau ngày đoạn tang, Lê Văn Thịnh đến Chi Nhị trang (nay là làng Chi Nhị, xã Song Giang, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh), thấy dân nơi đây quê mùa, thật thà nhưng ít học vấn, ông bèn vận động dựng trường để ông dạy dân học. Về sau, dân nơi đây biết chữ, biết lễ, nghĩa là do công truyền dạy của ông.
Trạng nguyên Lê Văn Thịnh. Ảnh minh hoạ - Chat GPT.
Thời vua Lý Nhân Tông nối nghiệp bình trị, năm Ất Mão (1075), triều đình mở khoa thi minh kinh bác sĩ và Nho học tam trường, Lê Văn Thịnh đỗ đầu - xem như Trạng nguyên khai khoa Đại Việt. Năm ấy vua mới 9 tuổi, ông được phong Thị độc chi chức hầu vua học. Năm vua 18 tuổi (1084), Lê Văn Thịnh được phong Thị lang Binh bộ.
Tại hội nghị này, Lê Văn Thịnh đã khẳng định hai châu Quy Hóa - Thuận An nguyên là đất Vật Dương - Vật Ác của Đại Việt đã bị các tù trưởng lấy trộm đem nộp cho Tống. Đại diện phái đoàn Tống biện luận rằng: Những đất mà quân nhà vua (chỉ vua Tống) đã đánh lấy, thì đáng trả cho Giao Chỉ. Còn những đất mà các người đem nộp thì khó mà trả lại.
Ngay lúc đó, Lê Văn Thịnh đã khảng khái phản bác: Đất có chủ, các viên coi giữ mang nộp mà trốn đi thì đất ấy thành vật ăn trộm của chủ. Sự chủ giao cho mà tự lấy trộm đã không tha thứ được, mà trộm của hay tàng trữ thì pháp luật cũng không cho phép. Huống chi nay, chúng lại mang đất trộm dâng để làm nhơ bẩn sổ nhà vua. Và với những lời lẽ biện sắc sảo, khôn khéo của Lê Văn Thịnh đã buộc vua Tống phải xuống chiếu trả lại Đại Việt 6 huyện, 3 động và thưởng Lê Văn Thịnh 200 tấm vải, Nguyễn Bồi 100 tấm vải.
Đấu tranh ngoại giao thắng lợi: Về nước, Lê Văn Thịnh được vua phong chức Thái sư năm Ất Sửu - 1085; năm ấy Lý Nhân Tông 19 tuổi.
Lời bàn về trạng nguyên Lê Văn Thịnh
Mục đích quan trọng nhất của sứ giả Lê Văn Thịnh ngày ấy là giành lại lãnh thổ đã bị xâm chiếm, vì thế, ông thực hiện phương châm ngoại giao hết sức mềm dẻo, từ tốn theo cách “chỉ lấy lý lẽ mà giải thích”. Thái độ của Chánh sứ Lê Văn Thịnh khiến vua Tống phải nể phục và khen ông là người “biết cung kính, biết lẽ phải”. Và trong chuyến ngoại giao năm 1084, Lê Văn Thịnh không chỉ hoàn thành xuất sắc trọng trách của triều đình giao phó là giành lại nhiều vùng đất biên cương phía Bắc mà bản thân ông còn được vua Tống ban phong chức Long đồ các Đãi chế. Việc phong chức cho một vị Chánh sứ xuất thân từ khoa bảng của Đại Việt đã chứng tỏ rõ sự công nhận và nể phục của triều đình phong kiến Trung Hoa đối với trí thức Nho học Việt Nam thời Lý.
Trong công cuộc giữ vững chủ quyền lãnh thổ, bảo đảm an ninh quốc gia của triều Lý, chúng ta không thể không nhắc đến những cống hiến xuất sắc của Binh bộ Thị lang Lê Văn Thịnh. Vẫn biết rằng, mỗi thời đại có những điều kiện khác nhau nên mối bang giao cũng hoàn toàn khác, song nhắc lại những bài học ngoại giao của tiền nhân với hy vọng giúp mỗi người Việt Nam hôm nay phát huy truyền thống của tổ tiên, từ đó củng cố thêm bản lĩnh, ý chí, quyết tâm bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ dân tộc bằng giải pháp hòa bình.
THEO DANVIET