Nguyễn Hữu Dật sinh tại Thăng Long. Cha ông là Nguyễn Triều Văn, tước Triều Văn hầu, theo chúa Nguyễn Hoàng vào Thuận Hóa từ năm 1609 và chính thức định cư tại huyện Phong Lộc, tỉnh Quảng Bình.
Thuở đi học, Nguyễn Hữu Dật rất thông minh, trí nhớ hơn người. Càng lớn lên ông càng giỏi văn chương, lại thích võ nghệ. Cha ông muốn năng khiếu của con được phát huy đã mời thầy về dạy học. Ông được võ sư tận tâm truyền thụ các binh thư, binh pháp cũng như võ nghệ. Lúc ông 16 tuổi đã lừng danh văn chương, võ lược nên được chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) bổ nhiệm làm chức quan văn trong triều. Do có tài lại được bổ nhiệm giữ chức vụ sớm nên ông nảy sinh tính tự cao, chúa Sãi cho nghỉ việc. Nhưng sau xét thấy tài năng của ông cần được sử dụng, nên chúa vời lại triều và cho giữ chức vụ cũ.
Tranh vẽ danh tướng Nguyễn Hữu Dật.
Những năm sau, ông được lên chức Tham cơ vụ, được tham dự các cuộc họp bàn việc cơ mật, ông đã đóng góp nhiều ý kiến có lợi cho triều chính.
Năm 1627, chúa Trịnh Tráng mang quân nam tiến lần thứ nhất. Nguyễn Hữu Dật được phong giữ chức Giám chiến, cùng tướng Nguyễn Phúc Vệ mang quân ra đóng ở nam sông Gianh. Khi hai bên đang giằng co, ông sai người phao tin phía bắc Trịnh Gia, Trịnh Nhạc sắp dấy loạn. Trịnh Tráng nghi ngờ trong họ sinh biến nên hạ lệnh rút quân về.
Năm 1631, ông theo Đào Duy Từ đắp lũy Nhật Lệ (tục gọi là lũy Thầy), một chiến lũy quan trọng giúp quân Nguyễn (vốn có lực lượng mỏng hơn), cầm cự được với quân Trịnh trong các cuộc giao tranh. Năm 1634, Đào Duy Từ mất, Nguyễn Hữu Dật tiếp tục trùng tu lũy Thầy và lũy Trường Dục. Ông tiếp tục xây dựng thêm lũy Động Cát (tức lũy Trường Sa) để củng cố tuyến phòng thủ.
Năm Mậu Tý (1648), ông nhận chức Cai cơ lãnh ký lục dinh Bố Chính, sau thăng Đốc chiến, tước Chiêu Vũ Hầu, cùng Nguyễn Hữu Tiến đem quân ra Bắc Hà, chiếm được đất hai huyện thuộc Nghệ An. Sau chiến thắng này, ông được chúa Nguyễn thăng chức Cai cơ, làm Ký lục dinh Bố Chính.
Tương truyền, mỗi lần được chúa Nguyễn ban thưởng, ông thường chia cho cấp dưới, nhất là những người nghèo khó, hoặc xét theo hoàn cảnh mà ban thưởng. Bởi vậy, ông rất được lòng tướng sĩ và nhân dân. Không những thế, đối với tù binh, ông cũng đối xử rất nhân hậu.
Năm 1650, Nguyễn Hữu Dật định dùng kế trá hàng chúa Trịnh và đã viết thư hẹn về hàng chúa Trịnh ở Bắc Hà. Tôn Thất Tráng biết việc này nhưng không hiểu ý đồ của ông và đã tâu lên chúa Nguyễn rằng ông muốn theo chúa Trịnh. Nguyễn Phúc Tần liền bắt giam ông. Trong ngục, ông viết tập thơ "Hoa văn cáo thị", tỏ rõ nỗi lòng oan khuất. Chúa Nguyễn lại tha ông ra và sai làm tướng.
Năm 1661, ông được thăng làm Chưởng cơ, trấn thủ dinh Bố Chính. Cuối năm đó con chúa Trịnh Tạc là Trịnh Căn mang quân vào đánh. Ông dùng kế "vườn không nhà trống", sai dồn hết dân vào trong lũy nên ít bị tổn hại. Sang năm 1662, ông cùng Nguyễn Hữu Tiến lại đắp thêm lũy Trấn Ninh và lũy Sa Phụ, làm thế ỷ dốc cứu ứng lẫn nhau cả đường thủy và đường bộ. Năm 1664, Hữu Tiến bị bệnh, ông được cử làm Chưởng dinh kiêm Tiết chế đạo Lưu Đồn.
Năm 1672, chúa Trịnh Tạc tấn công lũy Trấn Ninh hàng tháng trời mà vẫn không hạ được, đành rút quân về bắc. Từ đó hai bên đình chiến, lấy sông Gianh làm ranh giới. Năm 1681, Nguyễn Hữu Dật mất tại đạo Lưu Đồn, thọ 78 tuổi. Chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng ông là Chiêu quận công, thụy là Cần Tiết. Nhân dân quanh vùng cảm đức độ đã lập đền thờ ông ở Xóm Bến, Vạn Xuân (huyện Phong Lộc), gọi là đền Tĩnh Quốc công.
Nguyễn Hữu Dật có nhiều con, nổi tiếng nhất là Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Kính (tức Nguyễn Hữu Cảnh). Những người con này cùng nối chí ông làm võ tướng phò các chúa Nguyễn. Và cả ba người đều có công mở mang vùng đất Nam Trung bộ, Nam bộ.
Đ.T (Theo Báo Bình Phước)